Phác thảo chân dung doanh nhân
Hỏi: Chúng tôi được biết ông là Chủ tịch Tổng giám đốc của Invest Consult Group, một công ty tư vấn có tên tuổi và đồng thời cũng là một nhà nghiên. Hôm nay, chúng tôi muốn được trao đổi với ông về vấn đề Doanh nhân với mục tiêu xây dựng chân dung về các doanh nhân Việt Nam.
Trả lời: Xã hội chúng ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp trở thành một nền kinh tế có chất lượng thị trường. Các đường nét để có thể vẽ ra chân dung của các doanh nhân Việt Nam cũng mới hình thành, bởi vì suy ra cho cùng doanh nhân là những phần tử của bức tranh lớn hơn, đó là bức tranh kinh tế. Doanh nhân là những người lính trên trận địa kinh tế. Nền kinh tế của chúng ta mới là một nền kinh tế đang được phác thảo một cách mò mẫm, cho nên, chân dung của các nhà kinh doanh cũng mới chỉ là những phác thảo mà đôi chỗ còn thể hiện sự vội vã. Báo Tiền Phong là tờ báo của thanh niên cho, nên, sự phác thảo bất kỳ chân dung nào của báo Tiền phong đều có giá trị hướng dẫn đối với thế hệ trẻ của chúng ta. Chính vì vậy việc tô vẽ chân dung các doanh nhân Việt Nam trong trạng thái nó mới chỉ là phác thảo cần phải rất thận trọng, nếu không chúng ta sẽ hướng dẫn sai thế hệ trẻ. Tôi cho rằng, thay vì phác thảo ra một chân dung cụ thể, chúng ta hãy bàn luận với nhau thế nào là những nét cơ bản để tạo ra chân dung của một nhà kinh doanh và rộng hơn là thế nào là những nét cơ bản để phác thảo ra một nền kinh tế.
Trước hết, chúng ta cùng phân tích các đường nét cơ bản mà nhân loại vốn có để định danh, để phác thảo một cách tương đối tiêu chuẩn về các đối tượng được gọi là doanh nhân.
Có một thời kỳ rất dài, xã hội chúng ta coi thường doanh nhân, chỉ cho đến khi chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì chúng ta mới phát hiện ra giá trị xã hội hay đóng góp xã hội của doanh nhân. Đảng và Chính phủ có lẽ muốn khắc phục những sai lầm về mặt nhận thức đối với giới doanh nhân trong quá khứ nên đã cho họ truy lĩnh nhiều giá trị, nhiều lời khen mà trên thực tế họ chưa đáng có và thực ra cũng chưa nên có. Hình ảnh của doanh nhân Việt Nam sẽ hình thành và rõ nét dần cùng với hình ảnh nền kinh tế Việt Nam, cho nên chúng ta cùng xây dựng các đường nét phác thảo chứ không nên vẽ các ví dụ cụ thể để cố định hóa nhận thức của thế hệ trẻ về giới doanh nhân. Tại sao tôi lại nói như vậy? Bởi vì có đến 70-80% các doanh nhân Việt Nam vẫn kiếm lợi dựa vào việc khai thác các mặt hạn chế của thể chế của chúng ta về kinh tế. Những kinh nghiệm mà những người rất thành đạt có chỉ là nhũng chủng loại rất hạn chế, trong đó phổ biến nhất là tận dụng các sơ hở của thể chế. Tận dụng sơ hở của thể chế không phải là một việc xấu, vì ở mọi nơi trên thế giới con người sinh ra đều tận dụng những sơ hở của thể chế nhưng ở xã hội chúng ta nó vô tình có những ý nghĩa xấu. Chúng ta chưa có được một thể chế tiêu chuẩn, do vậy mật độ những hành động lợi dụng thể chế là rất rộng. Thế hệ trẻ có thể quan sát thấy trên thực tế những mặt trái như vậy, và nên chúng ta tô vẽ hình ảnh của các doanh nhân Việt Nam mâu thuẫn với những hành động diễn ra hàng ngày của họ thì thế hệ trẻ sẽ không tin vào mô tả của chúng ta nữa. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng.
Một vấn đề nữa là nền kinh tế của chúng ta không chuyên nghiệp và hành vi cơ bản của giới doanh nhân Việt Nam cũng không chuyên nghiệp. Ví dụ không có công ty nào được kiểm toán một cách minh bạch không có công ty nào thể hiện mối quan hệ giữa người lao động và người chủ xí nghiệp một cách rành mạch. Thỉnh thoảng có những đối tượng làm tốt nhưng không phải tất cả đều làm tốt. Giới doanh nghiệp quan hệ với giới cầm quyền đôi lúc cũng không minh bạch, nhất là trong điều kiện hiện nay. Những việc ấy diễn ra hàng ngày ngoài đường và giới trẻ có thể quan sát được, cho nên nếu chúng ta mô tả các doanh nhân một cách quá đẹp, quá lý tưởng thì sẽ mâu thuẫn với thực tế hành động của họ, và việc đó sẽ tạo ra sự mất lòng tin đối với một tờ báo có một truyền thống lâu dài và có uy tín xã hội lớn như báo Tiền phong.
Hỏi: Vậy xin ông cho biết đôi nét về đội ngũ doanh nhâh Việt Nam hiện nay?
Trả lời: Doanh nhân là một lực lượng xã hội góp phần tạo ra các giá trị gia tăng của xã hội, bởi vì, bản chất của hoạt động kinh tế là tạo ra giá trị gia tăng. Xã hội bỏ ra một đồng vốn thông qua doanh nhân để tạo ra một đồng rưỡi, cho nên, doanh nhân mà không tạo ra được một đồng rưỡi giá trị thì không phải là doanh nhân tốt. Có rất nhiều người vội vàng gán cho doanh nhân các tiêu chuẩn bắt buộc phải có như cái Tâm thông qua việc làm từ thiện hoặc những việc phi lợi nhuận, nhưng tôi không nghĩ thế. Với tư cách là một nhà kinh tế, tôi cho rằng doanh nhân là một lực lượng xã hội làm gia tăng các giá trị kinh tế của xã hội bằng các biện pháp kinh doanh. Doanh nhân có thể là nhà sản xuất hay còn gọi là các nhà công nghiệp. Anh bỏ ra 10 đồng cho nguyên liệu và tiền lương thì anh phải tạo ra 15- 16 đồng. Loại doanh nhân thứ hai là các nhà thương mại, họ làm cho tất cả các sản phẩm xã hội được lưu chuyển một cách hiệu quả và linh hoạt trong đời sống thị trường, tức là hiện thực hóa các qui luật cung cầu. Loại doanh nhân thứ ba là những người cung cấp dịch vụ để cho hai loại hình trên hoạt động một cách hiệu quả, đó là doanh nhân dịch vụ. Doanh nhân dịch vụ là những người hỗ trợ quá trình sản xuất công nghiệp và thương mại một cách có lợi và phù hợp với đòi hỏi của các thể chế quản lý. Ngân hàng là một loại dịch vụ, kiểm toán là một dịch vụ, quản lý cũng là một loại dịch vụ. Công nghiệp, thương mại và dịch vụ là ba khối trong cấu trúc kinh doanh. Công ty của tôi thuộc nhóm thứ ba, nhóm dịch vụ.
Tiêu chuẩn của các loại hình trong ba nhóm này là khác nhau. Nhà công nghiệp được đánh giá dựa trên cơ sở đo được lợi ích đầu ra của các quá trình công nghiệp. Việc nắm bắt được các vấn đề khoa học, các vấn để thực tế trong đời sống và các chính sách để có thể đưa ra các dự án công nghiệp có chất lượng phù hợp với qui luật tự nhiên của đời sống và phù hợp với các chính sách của chính phủ chính là bản lĩnh của nhà công nghiệp. Còn người hoạt động thương mại thì phải biết mua sản phẩm nào, bán sản phẩm nào. Anh bán sản phẩm đến những thị trường lớn, những thị trường bên ngoài Việt Nam thì hiệu quả của quá trình kinh doanh phải lớn hơn. Như vậy việc đo đạc hình ảnh cũng như chất lượng của các nhà kinh doanh thương mại sẽ khác so với của nhà sản xuất. Còn đối với các doanh nhân dịch vụ thì phải đo bằng tính chuyên nghiệp. Cho đến phút này giới truyền thông của chúng ta vẫn mô phỏng các nhà kinh doanh một cách chung chung và trộn lẫn tiêu chuẩn của cả ba nhóm này với nhau. Chưa có một cơ quan truyền thông nào ý thức đầy đủ được rằng đây là ba nhóm người khác nhau trong cộng đồng doanh nhân Việt Nam và cả cộng đồng doanh nhân thế giới. Đôi khi chúng ta tiếp xúc với các nhà công nghiệp, chúng ta thấy họ nghiêm túc, họ nói đến đầu ra, đến vào, đến năng suất, đến lao động, họ phải quản lý rất nhiều việc liên hệ trực tiếp đến việc tiêu tiền và sử dụng con người. Nên chỉ có cách nhìn tương đối vật lý và đơn giản thì chúng ta sẽ thấy các nhà công nghiệp rõ hơn. Có một thời gian dài Đảng và Nhà nước chỉ nhìn thấy nhà công nghiệp và không gọi nhà công nghiệp là nhà kinh doanh, hay nói cách khác là đối lập nhà công nghiệp và nhà kinh doanh về mặt phẩm chất con người, đây là một sự nhầm lẫn. Có một thời kỳ từ khi chúng ta thành lập nước cộng hòa đến năm 1986, chúng ta không thừa nhận nhà kinh doanh là những người hoạt động thương mại. Nhà nước nắm độc quyền về cả nội thương, ngoại thương, do đó trong xã hội không có nhà thương mại và nền kinh tế của chúng ta trở thành nền kinh tế phân phối một chiều. Vì vậy, tất cả các sản phẩm công nghiệp làm ra không được sử dụng một cách có hiệu quả và không bán được. Sự xuất hiện của lớp người thứ hai là các nhà thương mại đã khắc phục một trong những nhược điểm cốt tử của nền kinh tế kế hoạch, tức là các nhà thương mại đã biến nền sản xuất Việt Nam thành một nền sản xuất có chất lượng thị trường. Khi có hai đối tượng này thì chúng ta tưởng đã đủ rồi, vì có người sản xuất và có người bán hàng, nhưng không phải. Cả người sản xuất và người bán hàng đều phải được chuyên nghiệp hóa, cho nên mới xuất hiện nhóm thứ ba là các nhà doanh nhân dịch vụ, chuyên cung cấp các dịch vụ để làm cho cả khu vực công nghiệp lẫn thương mại trở nên chuyên nghiệp. Vai trò của nhóm cung cấp dịch vụ là nâng cao khả năng chuyên nghiệp hóa của nền kinh tế.
Hỏi: Ông có thể phác thảo đôi nét về doanh nhân trong tùng nhóm mà ông đã đề cập?
Trả lời: Thứ nhất là các nhà công nghiệp. Chúng ta có nửa thế kỷ xây dựng nền công nghiệp, từ công nghiệp nặng trước năm 1986 đến công nghiệp hàng tiêu dùng được phát triển từ sau năm 1986 đến nay, cho nên chúng ta có một lực lượng các nhà công nghiệp khá hùng hậu. Mối liên hệ giữa các nhà công nghiệp với các nhà công nghệ cũng đã bắt đầu hình thành tương đối rõ. Có thể nói, lực lượng các doanh nhân công nghiệp tương đối tốt và đã có tiềm năng. Chúng ta đã có các nhà công nghiệp quản lý những xí nghiệp vài ngàn công nhân. Đây là một ưu điểm. Tuy nhiên các nhà công nghiệp của chúng ta mặc dù có thể quản lý một xí nghiệp lớn, nhưng quản lý một cách chuyên nghiệp và tạo ra hiệu quả chuyên nghiệp thì chưa. Lực lượng này cần phải được hoàn thiện, nhưng không phải hoàn thiện bằng chính họ. Hoàn thiện bằng chính họ mới chỉ là một phần, phải hoàn thiện cả yếu tố mua bán và yếu tố dịch vụ thì mới tạo ra trạng thái chuyên nghiệp thực sự của các nhà công nghiệp. Chúng ta có rất nhiều ví dụ để nói về các nhà công nghiệp, ví dụ như Tổng Giám đốc Vinamilk, Tổng Giám đốc công ty Việt Tiến. Chúng ta có nhiều nhà công nghiệp quốc doanh, nhà công nghiệp tư nhân họ đều là những nhà công nghiệp tương đối tốt xét về khả năng có thể tiếp quản và quản lý điều hành một xí nghiệp công nghiệp, nhưng khả năng để điều hành một xí nghiệp bằng lợi ích, điều hành một cách chuyên nghiệp thì chưa. Tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta vẫn tự làm thương mại, chúng ta chưa có các hãng phân phối lớn như Wal-martl, Carrefour, Marks and Spencer... Chúng ta không có các hãng bán lẻ làm hệ thống phân phối của chúng ta không được xác lập và xây dựng một cách chuyên nghiệm cho nên các nhà công nghiệp thường phải làm cả chức năng thương mại. Tất nhiên không ai cấm một nhà công nghiệp kiếm thêm công việc của nhà thương mại, nhưng sự kết hợp như vậy phản ánh trạng thái không chuyên nghiệp của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, phải nói rằng chúng ta đã có những nhà công nghiệp có những khả năng ban đầu rất tốt.
Cái khâu, cái hình ảnh mà chúng ta kém chính là thương mại. Chúng ta chưa có các nhà thương mại chuyên nghiệp, hay nói cách khác toàn bộ hệ thống phân phối của chúng ta là rất không chuyên nghiệp. Do đó, khi gia nhập WTO rất nhiều người lo sợ rằng các hãng phân phối lớn sẽ bóp chết các hãng bán lẻ. Đây là tâm lý cần phải cảnh giác, vì nó không đúng như thế. Chính các hãng phân phối chuyên nghiệp sẽ tạo ra tiền lệ để chúng ta ý thức về sự chuyên nghiệp hóa các hoạt động thương mại. Các anh biết rằng khi chúng ta bán hàng ra nước ngoài có rất nhiều vụ bị kiện cáo, rất nhiều vụ bị phạt đó là kết quả của tình trạng không chuyên nghiệp về thương mại. Chỉ có người làm thương mại chuyên nghiệp mới nắm được tiêu chuẩn của hàng hóa vào châu Âu đòi hỏi khác với hàng hóa vào Nhật Bản như thế nào, hay tiêu chuẩn hàng hóa vào Mỹ như thế nào. Còn các nhà sản xuất mà đi làm thương mại thì không ai đủ thì giờ để hiểu biết một cách chi li những vấn đề như vậy. Chúng ta mới có khoảng 15 năm hình thành các thói quen thương mại. Trước đây, việc phân phối hàng hóa thuộc độc quyền của nhà nước. Chúng ta có Tổng công ty Bách hóa Việt Nam và Tổng công ty Xuất nhập khẩu Việt Nam, hai tổng công ty ấy sinh ra để thỏa mãn việc xuất khẩu một lượng sản phẩm ít ỏi của Việt Nam. Những tổng công ty như vậy trong sự phát triển hiện nay không còn địa vị nữa, mà chúng ta thì chưa kịp hình thành đội ngũ các nhà thương mại chuyên nghiệp, cho nên phải nói rằng, khu vực thương mại của lực lượng các nhà kinh doanh Việt Nam là yếu. Còn bộ phận thứ ba là các nhà kinh doanh dịch vụ thì còn yếu hơn cả các nhà thương mại.
Hỏi: Ông có thể cho biết ý tưởng về việc thành lập công ty của ông?
Trả lời: Sau năm 1975 tôi đã bắt đầu nhìn thấy các vấn đề của nền kinh tế Việt Nam. Sau cải tạo tư sản ở miền bắc, cải tạo tư sản ở miền Nam, tôi biết chắc rằng nền kinh tế của chúng ta sẽ có vấn đề. Năm 1979 khi người Trung Quốc đánh Việt Nam là tôi hiểu rằng chắc chắn phe XHCN sẽ có những vấn đề. Năm 1983 khi Mikhail Gorbachev tổ chức cải tổ ở Liên Xô thì tôi biết chắc chắn là Liên Xô có vấn đề. Đến năm 1985, tôi kết luận rằng dứt khoát phe XHCN sẽ sụp đổ và khi chúng ta mất đi chỗ dựa kinh tế vào phe XHCN thì chúng ta sẽ khó khăn. Các anh biết rằng vào năm 1985 chúng ta lạm phát mấy nghìn phần trăm và số lượng người đói trên lãnh thổ Việt Nam vào những năm 1980-1985 lớn khủng khiếp. Nhìn các hiện tượng ấy, một người chịu để tâm suy nghĩ sẽ thấy ngay là dứt khoát có vấn đề.
Tôi đã nghiên cứu Việt Nam rất kỹ và đi đến kết luận rằng, mất Liên Xô, mất Đông Âu, mất khối SEV thì Việt Nam phải mở cửa. Vào những năm 1978, tôi phát hiện ra sự mở cửa của Trung Quốc trước khi Trung Quốc mở cửa thật. Tôi đã nhìn thấy chiến dịch ngoại giao bóng bàn diễn ra vào những năm 1968 của người Mỹ với Trung Quốc. Tôi thấy rằng người Trung Quốc đã bắt đầu lái con tàu quan hệ sang phương Tây và chắc chắn là người Việt Nam sẽ nhìn thấy.
Tôi cũng thấy rằng, khi chúng ta mở cửa sẽ có hai cộng đồng người gặp nhau, người Việt Nam chúng ta thì chưa biết gì về ngoại thương, về ngân hàng… còn những người nước ngoài thì biết tất cả nhưng chưa biết gì về một xã hội đặc biệt như xã hội Việt Nam. Hai cộng đồng người ấy gặp nhau sẽ cần người phiên dịch. Tôi đóng vai trò người phiên dịch và tôi kiếm tiền bằng việc phiên dịch sự khác biệt giữa hai hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, giữa phương Tây phát triển và Việt Nam đang đi tìm con đường phát triển. Đến bây giờ vai trò ấý vẫn chưa hết, tuy nhiên sự phiên dịch tập trung vào những đối tượng tinh tế hơn, phức tạp hơn và những khía cạnh phong phú hơn.
Hỏi: ông đã gặp những khó khăn gì khi làm nghề này?
Trả lời: Xã hội chúng ta là xã hội sùng bái công nghiệp, vì thế tất cả các đối tượng phi công nghiệp đều bị ngờ vực và tôi bị ngờ vực là đương nhiên. Tôi có nghĩa vụ phải giải thích với xã hội, giải thích với các nhà lãnh đạo là cái mà chúng tôi làm cũng là cái mà xã hội cần. Năm 1989, chúng tôi kết hợp với thành ủy thành phố Hồ Chí Minh tổ chức một cuộc hội thảo về xây dựng thị trường tài chính và thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi đã bị gọi lên để chất vấn và chịu kỷ luật từ phía Chính phủ về việc truyền bá những khái niệm nhạy cảm vào Việt Nam. Sau này Đảng và Chính phủ đã đánh giá lại và không có những kỳ thị đối với chúng tôi nữa.
Tôi cho rằng, tất cả những người muốn làm một cái gì đó đều phải sáng tạo. Sáng tạo là gì? Là nhìn thấy trước những nhu cầu của xã hội để làm. Nhìn thấy trước nhu cầu của xã hội là bản năng quan trọng nhất của nhà kinh doanh. Bất kỳ nhà kinh doanh nào không nhìn thấy, không tưởng tượng nổi nhu cầu của xã hội thì không trở thành nhà kinh doanh lớn được. Ví dụ, làm sao Bill Gates ngồi một góc ở nước Mỹ mà có thể nghĩ rằng những sản phẩm của mình có thể làm thay đổi thế giới. Làm sao ông ta có thể bỏ tiền ra làm những hệ điều hành mà nó trở thành không chỉ công cụ kỹ thuật mà còn là công cụ xã hội, thậm chí là công cụ chính trị của tất cả các chính phủ hiện đại trên thế giới. Một nhà kinh doanh tốt là phải phỏng đoán, dự báo được nhu cầu của đời sống và cung ứng những sản phẩm phù hợp với nhu cầu ở những chặng khác nhau của sự phát triển. Ví dụ, trong xã hội như xã hội của chúng ta thì nghề của chúng tôi chia thành hai nhánh. Một nhánh đi sâu vào việc xây dựng các dịch vụ chuyên nghiệp như văn phòng luật sư, công ty kiểm toán… Còn nhánh kia thì đi theo hướng móc ngoặc, xây dựng các mối quan hệ giữa các nhà chính trị với giới doanh nhân và kiếm tiền trên cơ sở khai thác những mối quan hệ ấy. Tôi không đi theo cả hai hướng ấy. Đi theo hướng xây dựng ngay các tổ chức chuyên nghiệp thì không phù hợp với thực tế Việt Nam, vì chỉ mới 3- 4 năm gần đây các công ty Việt Nam mới bắt đầu ý thức được vai trò của luật sư. Xã hội Việt Nam mới thức tỉnh về vai trò của các dịch vụ chuyên nghiệp trong những năm gần đây. Chúng ta xây dựng thị trường chứng khoán nhưng không có sự tham gia của kiểm toán. Các công ty kiểm toán hoạt động một cách hình thức, không có một bản báo cáo tài chính nào có đủ chất lượng quốc tế hay đủ tiêu chuẩn để phục vụ tính minh bạch của thị trường. Vì bản chất của thị trường chứng khoán là bán những chứng chỉ có giá mà không ai xác nhận giá trị của các chứng chỉ thì tức là không chuyên nghiệp. Cho đến bây giờ, chúng ta cứ băn khoăn là thị trường của chúng ta nóng hay lạnh nhưng chúng ta có làm gì đâu mà nó nóng hay lạnh, chúng ta cứ in ra là bán. Có cả những người in cổ phiếu giả để bán. Đáng ra trước khi làm chúng ta phải biết rằng, để tạo ra một cái chợ thì trước hết phải định nghĩa loại hàng nào được mang vào chợ bán. Chúng ta không làm việc ấy, xã hội chúng ta chưa chuyên nghiệp.
Tôi xin nhắc lại là các nhà kinh doanh cần phải biết rõ xã hội cần gì, thị trường cần gì và phải hình dung rất rõ thời cuộc. Tôi là người như vậy. Tôi không đi theo hướng chuyên nghiệp ngay, tôi cũng không chọn hướng móc ngoặc quyền lực, vì móc ngoặc quyền lực sẽ đốt cháy năng lực chuyên môn. Nhưng đi theo năng lực chuyên môn một cách quá lý thuyết sẽ không phù hợp với đòi hỏi thực tế của xã hội. Vậy đi như thế nào để kết hợp được các đặc điểm, để phản ánh được đặc điểm của xã hội và thị trường Việt Nam? Tôi đi ở giữa hai chiều ấy. Tôi không móc ngoặc để hỗ trợ tham nhũng, tôi cũng không ảo tưởng để tạo ra trạng thái chuyên nghiệp cứng nhắc đối với một xã hội đang ở mức chưa chuyên nghiệp. Làm thế nào để diễn đạt các dịch vụ hiện đại dưới dạng một ngôn ngữ phù hợp với trình độ sử dụng, với nhu cầu đang phát triển dần lên của xã hội Việt Nam chính là chính sách phù hợp nhất để phát triển loại hình dịch vụ ở Việt Nam.
Hỏi: Biết được xã hội cần gì để cung cấp cho xã hội cho nên ông đã thành công. Nhưng trước khi có sự thành công ấy, có lẽ ông đã gặp rất nhiều trở ngại, thăng trầm. Ông có thể kể về những chặng điểm của mình?
Trả lời: Tôi đi thanh niên xung phong từ năm 1962, không phải do yêu nước hay lãng mạn như nhiều người hay mô tả mà vì nghèo. Vì không có tiền đi học nên tôi phải đi làm, tôi đi làm trong sự đau khổ vì phải bỏ học và một trong những phương thuốc giảm đau mà tôi sử dụng khi phải bỏ học là đi thanh niên xung phong, tức là tìm trong hành vi bỏ học đi làm của mình một ý nghĩa xã hội nào đó. Tôi có thể đi làm ở Hà Nội, tôi có thể đi làm ở nhiều chỗ nhưng tôi đi tìm con đường giải thoát tôi về mặt tinh thần. Đi thanh niên xung phong được khoảng một năm thì người ta tuyển quân và thế là tôi đi bộ đội năm 1963. Đến khi đi bộ đội thì tôi thấy đây lại là một lối thoát nữa.
Hỏi: ông có thể kể về quãng đời trước đó của ông?
Trả lời: Tôi ở Nghệ An ra Hà Nội năm lên 9 tuổi và tôi phải đi bán nước chè ở ga Hàng Cỏ. Gia đình chúng tôi trước cách mạng là gia đình giàu có. Ông nội tôi là địa chủ, ông ngoại tôi cũng là địa chủ. Lúc còn thanh niên, bố tôi học ở Hà Nội và đỗ tú tài. Bố tôi vào Đảng từ những năm 1940, nhưng sau đó phải tạm dừng sinh hoạt Đảng cho đến năm 1960 vì là con địa chủ. Những bế tắc của đời sống chính trị của bố tôi làm cho mẹ tôi phải đi ra Hà Nội để tìm lối thoát cả vật chất lẫn tinh thần và tôi phải đi từ năm 9 tuổi. Gia đình tôi lúc bấy giờ rất khốn khó. Bố tôi là một ông tú mà phải đi bán thuốc lá dạo, tôi thì bán nước chè, cả nhà tôi đều phải làm như thế cả. Những người sinh ra đã nghèo rồi thì không thấy hết được cái tủi nhục của sự nghèo khổ. Trước năm 1953, tức là trước khi cải cách ruộng đất trước, khi phát động giảm tô, tôi là một cậu ấm, tôi sống trong gia đình mà một mình tôi có 3 người phục vụ. Lúc bấy giờ tôi có 4 anh em, tôi và cậu em kế tôi đều có gia sư, có một cậu giúp việc đưa chúng tôi đi chơi, và có một bà vú để lo ăn uống. Vậy mà vào năm 1954 tôi đã buộc phải gánh nước từ ngoài sông, leo qua đê để về nhà. Cuộc sống khắc nghiệt đã biến tôi từ một cậu ấm trở thành một đứa trẻ nghèo và phải lao động thật. Cái đấy có lợi hay có hại tuỳ theo cách đánh giá, nhưng với tôi nỗi đau khố ấy là một thực tế giày vò tôi. Tôi còn nhớ khi đi học trường Việt Đức ở Hà Nội, vào cái tuổi ấy chúng tôi đã bắt đầu biết thích các bạn nữ sinh rồi. Nhưng cũng vào cái tuổi ấy, sự nghèo khổ làm cho tôi chưa bao giờ dám làm quen với con gái vì luôn nghĩ đến thân phận mình, nghĩ đến sự lép vế của mình. Lúc bấy giờ những kẻ tha hương như tôi ở Hà Nội lép vế lắm, chúng tôi là những kẻ ngụ cư vừa nghèo khổ, vừa dị biệt về mặt văn hoá đối với Hà Nội. Tôi rất thích một cô bạn mà không dám nói. Mấy chục năm sau chúng tôi họp lớp, họp trường, cô ấy nói với tôi rằng, hồi ấy mà ông không cục cằn và nhút nhát thì bây giờ tôi đỡ khổ. Tôi hỏi vì sao thì cô ấy bảo là cô ấy vừa bỏ chồng. Đó là một người con gái đẹp và kéo violon rất hay, nhưng tôi không dám ngỏ lời, tôi không có bất kỳ một sự trơ tráo nào đủ để có thể bất chấp cái thân phận của tôi. Hồi tôi đi học cấp II, nhà tôi dán phong bì và làm hộp đựng giày. Khi nào mà người ta giục lấy hàng sớm là mẹ tôi lại đến cửa sổ lớp vẫy một cái và tôi trèo qua cửa sổ, bỏ học về nhà để dán hộp. Như thế làm sao mà tôi yêu được, làm sao mà tôi tự hào được. Lúc nào tôi cũng nghĩ về sự nghèo khó của mình, và chính vì lúc nào cũng nghĩ nên tôi mới làm được những chuyện như hiện nay.
Tôi vừa mới hoàn thành một quyển sách được đặt tên là “Tự do” tôi xem nghèo khổ là một trong những yếu tố làm mất tự do của đời sống của con người. Rất đáng buồn là xã hội chúng ta có một thời kỳ rất dài thi vị hoá sự nghèo khổ và kỳ thị sự giàu có như một đối tượng vô đạo. Người ta chỉ tìm thấy kẻ xấu trong những người giàu có và chỉ nhìn thấy đạo đức ở trong những kẻ nghèo khổ. Những kết luận như thế chôn vùi dân tộc chúng ta bao nhiêu năm. Cần phải phá bỏ quan niệm như thế. Người giàu có vẫn phải có đạo đức, phải làm thế nào để giàu có trong đức hạnh của mình, cái đấy là rất quan trọng. Có một số kẻ trước đây nghèo khó bây giờ có tiền rồi thì cho con mua ô tô, mua xe máy SH..., nhìn những ví dụ như vậy tôi rất thương. Những con người nghèo khổ về vật chất đang biến dần thành những người nghèo khó về mặt tâm hồn đến mức, ngay cả khi không còn nghèo khó về mặt vật chất nữa thì sự nghèo khó về mặt tâm hồn vẫn tiếp tục ám ảnh cuộc đời họ. Tôi không như thế. Tôi ý thức về sự nghèo khó về mặt vật chất và phấn đấu để ra khỏi nó nhưng tôi vẫn giữ nguyên được những giá trị khác.
Tôi cho rằng sự giàu có là một tất yếu mà con người phải phấn đấu. Mỗi một con người phải phấn đấu để có nhiều thứ, trong đó bước một là phấn đấu để giàu có, bước hai là phấn đấu để hiểu biết và bước ba là phấn đấu để cao thượng. Có tiền cũng tốt, nhưng tiền không làm cho con người trở nên có giá trị hơn. Có nhiều người sẵn sàng bỏ tiền để ngồi ăn một bữa cơm với một ông đại sứ nhưng họ không bao giờ có cơ hội ấy cả, dù họ có nhiều tiền. Mỗi người cần phải phấn đấu để giải phóng mình ra khỏi sự nghèo khổ, phấn đấu để giải phóng mình ra khỏi sự ngu dốt và phấn đấu để giải phóng mình ra khỏi sự tầm thường. Đấy chính là ba cái nấc để mô tả lộ trình phấn đấu của con người. Có thể có người làm dần từng bước, có thể làm song song cả ba việc hoặc hai việc.
Hỏi: Tôi nghĩ là cần phải giải phóng ra khỏi sự ngu dốt trước vì nếu ngu dốt thì không thể kiếm tiền được.
Trả lời: Nói như thế chưa chính xác. Chúng ta tưởng rằng đọc sách và học hành thì sẽ giải phóng mình ra khỏi sự nghèo khó, do đó vẫn nhầm lẫn rằng trong sách có tất cả mọi thứ. Không phải. Trong cuộc đời có sách chứ không phải trong sách có cuộc đời. Sách là một bộ phận của cuộc đời chứ không phải là sách thâu tóm toàn bộ cuộc đời. Giới trí thức của chúng ta có một nhầm lẫn quan trọng, đó là họ tưởng rằng sách, vở, chủ nghĩa có thể thâu tóm cuộc đời nhưng không phải. Sách vở, chữ nghĩa là một bộ phận, là một lực lượng mà một con người muốn thành đạt thì phải có nhiều bộ phận chứ không phải chỉ cần có một bộ phận của cuộc sống. Khi tôi đi thanh niên xung phong, mẹ tôi cho tôi hai bộ quần áo, một cái túi du lịch Trung Quốc và 20 đồng. Tôi đã ra hiệu sách Tràng Tiền mua hết 20 đồng tiền sách. Tôi vẫn còn nhớ như in, thứ nhất là Tuyển tập kịch Shakespeare được dịch bởi giáo sư Bùi Ý và cháu ông ta là Bùi Phụng. Tôi thuộc lòng những dòng tâm sự của Hamlet những đau khổ của Othenlo, những giận dỗi và đểu giả của Macbeth, những toan tính của Coriolanus... tất cả đã trở thành đời sống tinh thần của tôi. Thứ hai là bộ sách Chiến tranh và Hoà bình do phó giáo sư Cao Xuân Hạo dịch, thứ ba là Bài ca sư phạm của Makarenko và còn một vài bộ nữa. Tôi đã mang những bộ sách ấy đi cùng. Những năm tôi đi lính, trong ba lô của tôi, quần áo ít hơn sách. Có người thắc mắc tại sao những năm ấy mà tôi lại biết Shakespeare, Makarenko, Lev Tolstoi...? Khi nào anh sống trong nghèo khổ và cô đơn thì anh sẽ hiểu thỉ cần một giọt chữ thôi cũng có thể làm dịu được nỗi đau khổ của cuộc đời. Tôi có cả bộ ba tiểu thuyết của Marxim Gorky: Thời thơ ấu, Kiếm sống và Những trường đại học của tôi. Khi đọc Maxim Gorky tôi cảm thấy cái nghèo khổ hay cái đau khổ của mình gần giống với nỗi đau khổ của cậu bé Peskov, tức là Marxim Gorky lúc còn bé. Có một sự đồng cảm, đồng điệu nào đó giữa tôi và cậu bé Marxim Gorky. Tất cả những chuyện đó làm dịu bớt nỗi đau của tôi. Tôi không ham mê văn học như là một người đã biết rõ giá trị của các tác phẩm ấy, tôi ham mê văn học như câu chuyện Robinson Crusoe phải dạy cho con vẹt biết nói để mình nghe thấy tiếng người không chỉ phát ra từ miệng mình. Tôi đọc sách để tìm thấy một tiếng nói nào đó để an ủi nỗi cô đơn của một kẻ bị trôi dạt một cách cưỡng bức ra khỏi khát vọng của mình.
Bây giờ, tôi nhớ đến những quyển sách ấy như nhớ đến một người bạn, như nhớ đến một thứ gì đó cố tri. Lúc nhỏ tôi đọc truyện Không gia đình của Hector Malot, tôi thấy những quyển sách đi cùng với tôi và tuổi thanh niên của tôi giống hệt như là sự gắn bó của mấy đứa trẻ mồ côi, của cậu bé Rem và cậu bé Matchia nghèo khổ. Những quyển sách ấy là những người bạn an ủi tôi và phải nói rằng các tác giả của chúng là thần thánh với tôi. Tôi không có điều kiện để theo bất kỳ tôn giáo nào cả, nhưng tôi có một tôn giáo rất quan trọng và đi theo tôi suốt cuộc đời là vẻ đẹp được thể hiện bởi các tác giả vĩ đại.
Hỏi: Chúng tôi được biết ông đã viết một số quyển sách, vì sao ông lại viết những quyển sách như thế, ông muốn đưa cuộc đời vào sách hay vì một thôi thúc nào đấy?
Trả lời: Tôi là một người không thiếu tiền, tôi không thiếu tiền nhưng tôi yêu cuộc đời giống như một người bạn nghèo, tôi yêu cả nhược điểm của nó. Ai đó có thể căm thù, ghét bỏ, phê phán người nọ, người kia, nhưng ở tôi không có điều ấy. Tôi yêu cuộc đời một cách chân thật, yêu cả khuyết tật, nhược điểm của nó. Nền kinh tế bao cấp đối với tôi có những khía cạnh khó khăn, khổ sở nhưng đối với tôi còn có những khía cạnh trìu mến, vì nó chứa đựng rất nhiều kỷ niệm tinh thần của tôi. Đi thanh niên xung phong, đi bộ đội, rồi những vấp váp trong cuộc đời này có thể để lại cho tôi những vết sẹo, nhưng tôi xem những vết sẹo ấy như những kỷ niệm về một thời ngô nghê của xã hội, tôi chưa bao giờ căm thù chúng cả. Tôi viết sách là để thể hiện tình yêu của tôi đối với cuộc sống, để góp một phần nho nhỏ của tôi vào sự hợp lý hoá đời sống tinh thần của con người và tôi làm việc ấy một cách yên lặng, một cách âm thầm. Tôi không quảng cáo về mình, có nhiều người đến để viết về chân dung doanh nhân của tôi, nhiều người để nghị trên làm phim, nhưng tôi từ chối. Tôi nói với anh em thế này: Nếu các bạn không cẩn thận thì các bạn sẽ hướng dẫn sai xã hội. Có thể hôm nay mình hợp lý, mình đúng, nhưng cái mà các bạn cho là lý tưởng, là hình mẫu cho cuộc sống và định phổ biến vào trong đời sống chắc gì đã đúng cho ngày mai. Chắc gì hình mẫu của một người như tôi đã tốt cho thế hệ trẻ ngày mai. Cho nên cần phải khiêm tốn, không nên biến mình thành một đối tượng buộc thế hệ trẻ phải bắt chước mà hãy là một đối tượng để họ có thể quan sát để rút ra được một ít kinh nghiệm. Tôi là người có thể cung cấp cho thế hệ trẻ một vài thông tin, một vài kinh nghiệm có thể giúp họ suy ngẫm để rút ra những kinh nghiệm hợp lý hơn. Và tôi phải nói thật rằng, không một ai là hình mẫu cả, vì các công thức có hôm nay chưa chắc đã đúng cho ngày mai.
Hỏi:Ông có lời khuyên nào đối với các bạn trẻ từ trải nghiệm của bản thân mình?
Trả lời:Giữ gìn tự do tinh thần, đứng vững trên đôi chân của mình và luôn luôn suy ngẫm, luôn luôn tìm tòi, luôn luôn học tập để hợp lý hoá đời sống tinh thần của mình, làm động lực cho các hành động thực dụng của mình.
Hỏi:Ông rất đề cao đời sống tinh thần, không phải ai cũng có được điều ấy, phải doanh nhân nào cũng có được sự có được sự soi sáng của những cuốn sách như ông, không phải doanh nhân nào cũng viết được quyển sách như ông. Ông nhận xét thế nào về văn hóa doanh nhân bây giờ?
Trả lời: Chúng ta chưa có văn hóa doanh nhân. Xã hội chúng ta mới bắt đầu những bước chập chững đầu tiên để xây dựng một cộng đồng doanh nhân. Văn hoá doanh nhân là những đặc trưng được kết tinh bởi kinh nghiệm hoạt động của doanh nhóm chúng ta mới bắt đầu những bước đầu tiên, chúng ta chưa có nền văn hoá như vậy. Chúng ta không nên nêu vấn đề ấy để cưỡng bức xây dựng một nền văn hoá doanh nhân. Tôi có phát biểu với nhóm của nhà văn Lê Lựu, nhóm của giáo sư Hoàng Vinh ở trường Nguyễn Ái Quốc về điều này, tôi nói rằng, chúng ta chưa có doanh nhân thì làm sao có văn hoá doanh nhân được. Văn hóa doanh nhân sẽ đến cùng với sự hình thành của nền kinh tế. Không nên sốt ruột và không nên vội vã vẽ các bức chân dung sắc nét. Chúng ta chưa có hình mẫu nghiêm túc để có thể vẽ được những bức tranh có giá trị giống như Leonardo Da Vinci vẽ bức La Joconde.
Hỏi: Khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào WTO thì vấn đề cạnh tranh trở nên rất quyết liệt. Vậy việc chúng ta chưa có đội ngũ doanh nhân, chưa có văn hóa doanh nhân như ông nói có đáng lo ngại không?
Trả lời: Không. 3/4 hay 4/5 nhân loại đều gia nhập WTO và đều ngẩn ngơ như người Việt nhưng có ai chết đâu. Tại sao chúng ta lo lắng? Chúng ta tưởng rằng chúng ta là anh hùng, chúng ta vĩ đại, chúng ta sợ mất tiếng, chúng ta lép vế nhưng chúng ta cũng giống như thiên hạ thôi, chúng ta sẽ phát triển cùng thiên hạ. Không cần phải lo chuyện chúng ta vào WTO mà chưa có doanh nhân. Chúng ta vào WTO thì mới có doanh nhân và chúng ta đang bắt đầu hình thành đội ngũ doanh nhân. Doanh nhân là gì? Doanh nhân là người kiếm lợi trong một môi trường được quy định bởi các tiêu chuẩn của toàn cầu hoá. Chúng ta mới vào WTO, mà đấy cũng chỉ là quyết định của chính phủ, còn xã hội thì chưa biết nhiều về nó. Xã hội chúng ta đã gia nhập WTO đâu, chúng ta đang chuẩn bị gia nhập WTO, chúng ta đang từ từ gia nhập WTO mà giới thương nhân đã đi trước một bước.
Hỏi: Công ty của ông đã chuẩn bị như thế nào cho việc hội nhập?
Trả lời: Công ty của tôi, do đặc thù nghề nghiệp của nó, đã gia nhập WTO lâu rồi. Chúng tôi cung cấp dịch vụ cho những công ty nước ngoài từ năm 1987 mà những đối tượng ấy đã vào WTO trước năm 1987 rồi, cho nên chúng tôi hiểu những đòi hỏi của họ. Ví dụ, tập đoàn General Electrics của Hoa Kỳ đã từng đề nghị chúng tôi so sánh Bộ luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ với tất cả hệ thống kiểm soát tham nhũng của Việt Nam trước năm 1989. Chúng tôi được đặt hàng nghiên cứu những chuyện như thế, cho nên, công ty chúng tôi không đặt ra vấn đề gia nhập WTO hay không, chúng tôi đã phục vụ, đã cung cấp dịch vụ cho những đối tượng đã gia nhập WTO tù lâu rồi.
Hỏi: Khu vực dịch vụ ở Việt Nam còn yếu, trong khi ở các nước phát triển dịch vụ chiếm một tỷ trong rất lớn trong nền kinh tế. Theo ông, làm thế nào để phát triển các loại hình dịch vụ, như công ty ông chẳng hạn?
Trả lời: Dịch vụ là một loại kinh doanh thụ động nên không thể phát triển chủ động được, nó sẽ phát triển theo sự phát triển của nền kinh tế. Có một lần báo Lao động tổ chức một hội thảo, trong hội thảo ấy giáo sư Lê Vinh, lúc bấy giờ là Tổng thư ký Hội kinh tế Việt Nam phát biểu rằng: chúng ta phải phấn đấu để đưa nghề tư vấn thành ra một động lực của sự phát triển. Tôi có nói rằng, nghề tư vấn là chất bôi trơn cho sự phát triển nhưng trở thành động lực thì không. Không có thứ dầu nhờn nào trở thành động lực cả, nhưng không có dầu nhờn thì sẽ cháy máy. Dịch vụ là nơi cung cấp dầu nhờn để cho bộ máy kinh tế chạy một cách trơn tru nhưng nó không phải là bộ phận chủ yếu. Tuy nhiên, thu nhập của nó thì chưa chắc đã ít hơn các bộ phận động lực. Như nước Anh chẳng hạn, bộ phận dịch vụ của họ chiếm khoảng 70% tổng GDP. Xã hội càng văn minh thì thu nhập tù khu vực dịch vụ càng lớn. Một giờ lao động của luật sư ở các hãng luật lớn ở New York là 1000 USD, mà đây là một giờ của luật sư kha khá chứ chưa phải của các luật sư cao cấp. Như công ty của tôi bây giờ, mỗi một giờ các luật sư cao cấp của chúng tôi kiếm được từ khách hàng vào khoảng 150- 250 USD, xếp vào hàng đầu ở Việt Nam.
Hỏi: Đối với nghề của ông phải chăng nguồn vốn quan trọng nhất là nhân lực?
Trả lời: Không. Vốn lớn nhất là biết sử dụng nhân lực chứ không phải nhân lực. Bởi vì người Việt chúng ta có nhiều nhược điểm lắm, là một chủ doanh nghiệp, là người điều hành chính, tôi gặp rất nhiều khó khăn trong chuyện này. Có trình độ một chút là họ đòi lập hãng riêng, thành ra nhân sự luôn luôn biến động. Vì thế, phải có cách ứng phó với thực trạng ấy, đấy là luôn luôn đổi mới nhân sự và giữ được bộ khung, giữ được các cán bộ chủ chốt. Thường thì một cán bộ vào làm việc cho tôi khoảng 5 năm là họ lại đi xin việc chỗ khác và tìm được đồng lương khá cao trong thị trường lao động hiện nay. Ví dụ như chị Đàm Bích Thuỷ, Tổng giám đốc ANZ ở Việt Nam. Chị ấy trước đây là trợ lý của tôi. Chị ấy là một nhân tài. Chắc chắn đấy là người rất trung thực, rất nghiêm túc, rất chuyên nghiệp và có sức lao động bền bỉ. Tôi không hề tiếc lời để nói tốt về những người như thế. Đấy không phải trường hợp duy nhất, có những trường hợp khác. Trước đây có một người cũng là trợ lý của tôi sau đó trở thành Tổng giám đốc công ty chứng khoán Sài Gòn. Nhưng thành công một cách quốc tế nhất là chị Đàm Bích Thuỷ.
Hỏi: Chúng tôi được biết ông đã từng gặp Henry Kissinger, trong câu chuyện của ông với ông ấy có gì đặc biệt không?
Trả lời: Ông ấy nói với tôi về vai trò của khái niệm lãnh đạo trong đời sống toàn cầu. Ông ấy là người đầu tiên mà tôi cùng thảo luận về khái niệm mà tôi nghiền ngẫm mấy chục năm nay là vai trò của toàn cầu hoá về văn hoá. Sau này tôi có đến nói chuyện ở nhiều nơi trên thế giới về khái niệm này. Tôi nhớ là năm 1972, khi tôi chuẩn bị cưới vợ là lúc người Mỹ đánh bom B52 ở Hà Nội. Tôi đón vợ tôi về Hà Nội để chuẩn bị các thủ tục cưới, chúng tôi suýt chết giữa sông Hồng. Khi sang tới bờ bên này, tôi nói ngay với vợ tôi rằng: em lấy anh rồi nay mai đẻ cho anh một thằng con trai thông minh như Kissinger. Vợ tôi lúc bấy giờ ghét Mỹ và Kissinger lắm, nên kiên quyết không cưới nữa, tôi phải thuyết phục mãi. Tôi có kể chuyện ấy với ông Kissinger, ông ấy cười. Tôi bảo tôi với ông ấy cũng giống như số phận, ông ấy thông minh, tôi cũng thông minh.
Hỏi: Có rất ít người dám nói như ông là thông minh và tôi giàu có mặc dù người ta thông minh và giàu có thật. Đấy có phải là một điểm yếu của người Việt Nam không?
Trả lời: Đấy không phải điểm yếu của người Việt Nam. Người Việt Nam có quá nhiều điểm yếu, họ không dám nói thật những điều mình có là vì không tin vào những điều mình có. Trong tất cả những phẩm chất mà con người có, phẩm chất chinh phục người khác là phẩm chất quan trọng nhất. Anh không tin vào người khác thì làm sao chinh phục được họ. Tôi không tin vào sự vô hại, vô tư của các anh thì làm sao tôi nói với các anh những điều ấy? Và tôi không thấy mình kiêu ngạo gì về điều ấy cả vì tôi giàu có thật, tôi không dối trá. Giàu có nghĩa là gì? Nghĩa là tôi đủ tiền để làm tất cả những gì mình muốn. Tôi không bao giờ xếp hạng mình, nhưng tôi giàu có. Nếu tôi không thông minh thì làm sao mà giàu có được và làm sao tin vào sự giàu có của mình? Tôi lao động một cách rất chân thật. Tôi học tập trung thực đọc trung thực, sống trung thực, kiếm tiền cũng trung thực.
Đương nhiên tôi không chỉ trung thực mà còn khôn ngoan. Cái gì cũng cần khôn ngoan, cái gì cũng cần vẻ đẹp. Sự trung thực không gây thất thiệt cho ai thì đây chính là một vẻ đẹp. Trung thực mà làm cho người khác cảm thấy mình gian dối thì đấy là trung thực vụng. Tôi trung thực nhưng tôi không làm cho người khác cảm thấy mình không trung thực mà làm cho người ta thấy rằng hình như mình cũng trung thực, đấy chính là khôn ngoan.
Hỏi: Có người quan niệm rằng sự giàu có thể hiện qua cách anh tiêu tiền như thế nào chứ không phải số tiền anh có. Vậy ông tiêu tiền như thế nào?
Trả lời: Tôi lập cho vợ tôi một thư viện vào khoảng 5000 quyển sách. Tôi có một ngôi nhà cho vợ tôi ở mà một thủ tướng nếu vào ở cũng không cảm thấy xấu hổ. Tôi có tiền cho con tôi đi học ở một nước mà chi phí cho học hành ở đấy đắt giá nhất trên thế giới, nhưng tôi không có nhiều tiền cho chúng tiêu một cách bừa bãi. Phải nói rằng, tiêu tiền là hành động thể hiện chất lượng giáo dục rõ rệt nhất trong tất cả các hành động của con người. Bên cạnh giường ngủ của tôi cũng có vài ba ngàn quyển sách quan trọng. Tôi cũng lập một thư viện công cộng cho công ty tôi, ở đó có khoảng 10.000 đầu sách. Đấy là cách tôi tiêu tiền.
Hỏi: Chúng tôi được biết ông có một thời điểm rất khó, đó khi con gái ông bị bệnh...
.
Trả lời: Nỗi đau khố ấy, bất hạnh ấy nếu rơi vào ai ở cái thời điểm ấy thì cũng đều thế cả. Đương nhiên, sự nghèo khổ đến mức không có tiền chữa bệnh cho con là nỗi đau khổ lớn nhất mà tôi có. Đây là vết thương lớn nhất của tôi. Tôi cũng đã làm tất cả mọi cách để có thể chữa bệnh cho con. Ban ngày tôi đi làm ở cơ quan, 11 giờ đêm vào ngủ với con ở bệnh viện, còn từ 5 giờ chiều đến 10 giờ đêm là tôi chở xi măng và thép thuê cho nhiều nhà xây dựng bằng cái xe máy cọc cạch. Đêm nào cũng như thế trong vài năm.
Hỏi:Dự định tương lai cua ông là gì ?
Trả lời: Tiếp tục duy trì công ty, không phải vì tôi nữa mà vì các lớp thế hệ cán bộ sau tôi, và phát triển nó trở thành một tổ chức chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tôi không dùng chữ hàng đầu vì nếu công ty của tôi vẫn là hàng đầu thì xã hội không phát triển, nhưng công ty của tôi vẫn là đối tượng chuyên nghiệp trong số những công ty như vậy ở Việt Nam. Đây là dự định thứ nhất. Thứ hai là tiếp tục nghiên cứu và viết. Tôi cố gắng phấn đấu để từ giờ cho đến khi chết, số lượng trang sách mà mình viết bằng số lượng trang sách của những nhà hiền triết có tiếng trên thế giới. Thứ ba là gây dựng cho con cái. Và thứ tư là nếu cơ hội cho phép thì tôi sẵn sàng góp ý với các nhà lãnh đạo của chúng ta những điều có lý mà tôi cảm thấy. Tôi tuyệt đối không cầu lợi từ những mối quan hệ với những nhân vật có thế lực của xã hội. Tôi không cầu lợi mà tôi góp vào với họ. Họ có thể hiểu hay không hiểu, cái đó tuỳ thuộc ở họ, nhưng tôi góp cho họ không phải vì họ mà vì đất nước. Tôi là người yêu nước Việt Nam.
Hỏi: Rất ít người ở Việt Nam viết về các vấn đề có tính triết học, vậy tại sao ông lại chọn một việc rất khó như thế?
Trả lời: Suy nghĩ là công việc của tôi, thói quen của tôi, tôi không thấy vất vả gì cả, tôi thấy thích thú khi làm việc ấy. Tôi không định làm nhà triết học, tôi nghiền ngẫm về cuộc sống, tôi viết và nó vô tình trở thành triết học hay vô tình trở thành chính trị học. Tôi không có ý định làm triết học hay chính trị học nhưng đấy là khả năng gần nhất mà tôi có thì tôi làm thôi. Tôi làm một cách vô tư.
Hỏi: Khả năng nổi trội nhất của ông là gì?
Trả lời: Hồi trẻ tôi đã từng đi hát và tôi nhớ rằng NSND Trần Hiếu hồi trẻ đã lên tận trường tôi ở Hương Canh, Vĩnh Phúc can thiệp với nhà trường để tôi trở thành diễn viên của đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương. Tôi đã từng làm thơ, đã có ý định trở thành một người làm thơ. Và tôi còn làm khoa học nữa. Cương vị cao nhất mà tôi giữ trong hoạt động khoa học là Quyền Chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu khoa học của Viện nghiên cứu đầu ngành về các công trình giao thông vận tải. Tôi dự định làm một nhà kinh doanh và trên thực tế tôi cũng làm một nhà kinh doanh khá thành công. Bây giờ, tôi đang làm cái phần mà tôi thích nhất hay nói cách khác là công việc yêu thích nhất của tôi là làm một nhà nghiên cứu lý luận hay một nhà nghiên cứu chính trị học. Nếu tìm xem cái gì là năng khiếu nhất ở tôi thì có lẽ tôi không làm ca sỹ được, bởi vì tôi không kéo dài sự hát của tôi. Chắc là tôi cũng không làm thơ được vì cái đó không đeo đẳng tôi. Chắc là tôi cũng không làm một nhà khoa học kỹ thuật vì việc ấy cũng không đủ sức mạnh để lôi cuốn tôi. Làm nhà kinh doanh thì kéo dài nhất, hơn 20 năm rồi và làm nhà nghiên cứu lý thuyết về chính trị một cách chuyên nghiệp thì cũng được mươi năm rồi, nếu làm một cách nghiệp dư thì từ lâu lắm rồi. Và những quyển sách tôi viết ra trong một chừng mực nào đó cũng đã bị phê phán hoặc là được yêu thích, tức là nó cũng tác động vào đời sống tinh thần của con người đôi chút. Cái mà tôi yêu thích nhất là cái cuối cùng.
Hỏi: Bây giờ nếu tự họa chân dung thì ông sẽ sẽ chân dung của ông như thế nào?
Trả lời: Nếu tôi là Piccasso thì tôi sẽ tự vẽ một khuôn mặt được chia làm nhiều ô, mỗi một ô là đặc trưng cho một lĩnh vực mà tôi đã từng làm. Độ lớn hay diện tích của mỗi ô như vậy là khác nhau, tuỳ thuộc vào thành công của tôi trong thực tế. Tôi không có khả năng hội họa cho nên tôi không vẽ được, nhưng nên tôi tưởng tượng ra thì tôi sẽ vẽ như thế. Ở trái tim, nơi trang trọng nhất trong chân dung của tôi là gia đình tôi. Trên đỉnh đầu tôi là một lá cờ, đấy là cờ của nước Việt Nam. Phần còn lại thì được chia ra các ô trên đó vẽ những đặc trưng hoạt động của tôi.
Hỏi: Với ông, người vợ và những đứa con có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời: Người mẹ không bình đẳng với con cái. Đối với tất cả những người đàn ông chân chính thì cái cao hơn tất cả trong tình cảm là con mình, cái cao hơn tất cả trong lý trí là đất nước của mình. Phụ nữ là cành nguyệt quế, là cành hoa để trang trí cho khu vực quả tim của mình chứ không phải là bộ phận của nó. Vợ tôi có hỏi tôi rằng em có địa vị như thế nào trong đời sống tình cảm của anh? Tôi trả lời là: em là mẹ của các con anh. Toàn bộ bí quyết để duy trì đời sống vợ chồng là chuyển từ tình yêu nam nữ sang sự kính trọng mẹ của các con mình. Khi xem phim anh thấy có vị vua nào gọi vợ là em đâu mà gọi là phu nhân, là hoàng hậu. Tôi tôn trọng giá trị của vợ tôi là ở chỗ đó là mẹ của các con tôi. Những người phụ nữ không tự ái gì cả, bởi vì phụ nữ là những cành nguyệt quê bao lấy cái khung ảnh hình quả tim của những người chồng mà ở giữa là các con của họ.
Hỏi: Chúng tôi được biết công ty ông có một viện nghiên cứu. Có phải là ông là người đầu tiên thành lập viện nghiên cứu tư nhân không?
Trả lời: Có một kỷ niệm mà tôi rất thích, đó là tôi xin thành lập viện nghiên cứu này bằng cách hỏi ý kiến của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu một cách công khai trong một cuộc hội thảo. Ông đã tán thành việc thành lập viện nghiên cứu của tôi. Ông trở thành nhân vật rất quan trọng trong đời sống tinh thần của tôi. Tôi yêu mến ông bởi vì ông ủng hộ việc làm này của tôi.
Vào năm 1999, tức là sau 11 năm làm nghề và tiếp xúc quốc tế trong con người tôi đầy ắp các suy nghĩ về Việt Nam, vẽ đủ thứ. Tôi va chạm với tất cả các khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực của hệ thống chính sách, của thể chế chính trị và đời sống văn hoá Việt nam, tôi đối chiếu nó với đời sống của các quốc gia khác trên thế giới và mô phỏng lại những thứ ấy thành các tác phẩm khoa học. Động cơ của tôi là thành lập một viện nghiên cứu để góp thêm phần của mình vào sự phát triển của cuộc đời. Tôi là người tuyệt đối không có hay là tuyệt đối hạn chế đến mức cao nhất khát vọng mà người ta thường lạm dụng là lăng-xê. Tôi viết trong im lặng, tôi nói trong sự im lặng kể cả xuất bản sách cũng trong sự im lặng.
Hỏi: Chính vì viết trong sự im lặng nên nhiều người không được đọc sách của ông. Chúng tôi thấy ông viết sách rất hay, rất bổ ích.
Trả lời: Những tác phẩm của tôi không phải là tác phẩm thuộc dòng chính thống, không thuộc dòng chủ hiện nay của đời sống tư tưởng Việt Nam. Cho nên, tôi khó có thể quảng bá được khi nó không phải là một phần tử của dòng chữ. Tôi không phải là một kẻ cơ hội tìm cách bán rao các tác phẩm của mình, các quan điểm của mình. Tôi không tranh luận ở trên báo, trên đài, trên mạng internet. Tôi không có tham vọng hay không có ý muốn quảng bá mình như thế, bởi vì dần dần cuộc đời sẽ biết đến những thứ đó, không nên sốt ruột. Cũng không phải như người ta vẫn nói là hữu xạ tự nhiên hương. Tôi không nghĩ tôi là hương hay là xạ mà tôi nghĩ tôi là tôi, và đến lúc nào đó những ý nghĩ của tôi có giá thì cuộc đời sẽ ý thức được giá trị của mình. Không sốt ruột được. Bởi vì nếu định làm giá thì chỉ sau một đêm là chúng ta có cây, nhưng để trồng một cây cổ thụ thì phải kiên nhẫn. Tôi không định biến mình thành cái giá nên tôi không sốt ruột.
Hỏi: ông suy nghĩ về thời cuộc, về Chính phủ, về Đảng?
Trả lời: Tôi nghĩ là Đảng ta đang chuẩn bị để đi qua một cuộc giải phẫu quan trọng. Những tiền đề của những đòi hỏi như vậy từ phía xã hội là đã có. Vế Chính phủ thì không nên sốt ruột. Bởi vì Chính phủ là hiện thân của Đảng, cho nên không thể phê phán Chính phủ trong giai đoạn hiện nay được. Chính phủ phải làm những việc mà chính phủ cũng chưa chắc nghĩ hay khẳng định đấy là có lý. Chính phủ là một đối tượng hoàn toàn bị động về mặt chính trị, cho nên đừng sốt ruột và đừng phê phán Chính phủ. Tôi có nói trong một bài trả lời phỏng vấn của báo chí là trong khi những nhà lãnh đạo cấp tiến của chúng ta đang tìm cách để thoát ra khỏi sức hút của lịch sử thì việc chê họ, bình luận về họ đôi khi là bất nhẫn. Cẩn phải kiên nhẫn chờ đợi những thay đổi tích cực, những sự hoàn thiện từ phía họ. Người Việt chưa có kinh nghiệm trong việc điều hành một xã hội hiện đại, họ mới đang phấn đâu, mà phấn đấu như hiện nay là tương đối tích cực, cho nên không có gì phải sốt ruột cả. Chúng ta không thể biến một đất nước lạc hậu sau một đêm trở thành một đất nước hiện đại được, chúng ta cũng không thể chờ đợi sau một đêm Chính phủ trở thành một Chính phủ hợp lý được. Tất cả những chuyện đấy lệ thuộc vào hai thứ: sự phát triển của trí tuệ nhân dân và sự đổi mới về chính trị của những người cộng sản. Đấy là hai yếu tố quy định sự thành bại của đất nước chúng ta. Nhân dân mà không thức tỉnh, không năng động, không tích cực thì không chủ động. Còn Đảng không đổi mới thực sự mà chỉ đối mới trên lời nói thì không thể có một đất nước tiến bộ được.
Hỏi Nhưng liệu đổi mới có diễn ra không? Nhân sự của chúng ta có thực hiện được nhiệm vụ này không?
Trả lời: Nếu chúng ta không thật sự đổi mới về thể chế chính trị, không thật sự đổi mới cái cốt lõi chính trị bên trong đời sống của Đảng thì nhân sự nào cũng thế thôi. Chúng ta cứ nói thủ tướng này dở hơn thủ tướng kia, nhưng thực ra không phải. Tôi hoàn toàn thông cảm với các khó khăn của Thủ tướng Chính phủ, tôi hoàn toàn thông cảm với những vấn đề của Phó chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, tôi hoàn toàn thông cảm với những vấn đề của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi vì xã hội chúng ta đang nằm trong một trạng thái do dự, trạng thái phân vân chính trị. Nếu tôi mà làm thủ tướng thì tôi không thể làm gì hơn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được, bởi vì Thủ tướng không phải là tất cả, Tổng Bí thư cũng không phải là tất cả. Vấn đề là giới tri thức Việt Nam, nhân dân Việt Nam phải đi tìm cho họ một cách tiếp cận hợp lý hơn.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015