Hạnh phúc
Con người ở bất kỳ thời đại nào đều có chung một mục đích là theo đuổi cuộc sống hạnh phúc. Không ai trên đời này không mong cầu hạnh phúc. Mong cầu hạnh phúc và đi tìm hạnh phúc là dấu hiệu nhận biết sự lành mạnh của mỗi con người. Suy cho cùng, tất cả ý nghĩa, giá trị, niềm vui của cuộc sống mà chúng ta cảm thấy đều được gói gém trong khái niệm hạnh phúc. Đó là một khái niệm triết học rộng lớn phản ánh mục tiêu phát triển của toàn nhân loại. Nhưng trong quá trình đi tìm hạnh phúc, con người lại khoanh khái niệm này thành những mục tiêu rất hạn hẹp và cụ thể, ví dụ quy thành niềm vui, hay sự thỏa mãn...
Vậy, hạnh phúc có phải là một trạng thái tinh thần nhất thời của con người và có đơn giản chỉ là sự thỏa mãn các đòi hỏi hay không? Bản chất của hạnh phúc thật sự là gì? Trước những cuộc khủng bố liên tiếp xảy ra trên khắp thế giới vào những năm gần đây, chúng ta buộc phải đặt câu hỏi: loài người có thật hạnh phúc không? Vì thế, tôi muốn truy đuổi khái niệm hạnh phúc để tìm ra đâu là yếu tố cơ bản tạo nên hạnh phúc của con người.
1. Hạnh phúc có phải là sự thỏa mãn?
Phải thừa nhận rằng, nếu không có cảm giác thỏa mãn thì con người không thể có cảm giác hạnh phúc. Nhưng cảm giác thỏa mãn có được bằng cách nào là yếu tố cần phải xem xét để từ đó có thể kết luận người đó có hạnh phúc thật hay không. Tất nhiên, sự thỏa mãn sẽ đến khi con người thấy những nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ và cảm thấy hài lòng với cuộc sống. Song, tôi muốn nói đến khía cạnh nhầm lẫn của con người trong sự thỏa mãn, hay một trong những cách mà con người tìm thấy giá trị của mình, tìm thấy cảm giác thỏa mãn của mình là qua sự so sánh. So sánh có phải là cách để con người có được hạnh phúc thật sự không? So sánh là một động lực của cạnh tranh, của việc hoàn thiện các khả năng nhưng nếu con người đi tìm cảm giác hạnh phúc trong việc xác nhận mình có ưu thế với tất cả những đối tượng so sánh thì đấy chính là khuyết tật của con người khi nhận thức về hạnh phúc. Tại sao con người phải đi tìm một cách khổ sở như vậy sự hơn người của mình? Nhìn sâu hơn vào tâm hồn, chúng ta sẽ thấy mỗi người đều có những lúc như thế. Nếu chúng ta thua trong phép so sánh cụ thể này thì chúng ta đi tìm sự thắng ở trong phép so sánh cụ thể khác.
Rất nhiều nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà đạo đức học nhầm lẫn rằng so sánh giúp con người hoàn thiện mình. Vì họ quan niệm, ở trong những phép so sánh, các phẩm chất có thể nâng lên được bằng cách con người tự cố gắng. Nhưng như thế, so sánh cũng chỉ là một động lực của việc hoàn thiện, còn con người có hoàn thiện hơn được hay không là do nhiều nhân tố khác. Nếu cứ tiếp diễn các phép so sánh để tìm thấy hạnh phúc thì chính quá trình đó sẽ trở thành một cuộc hành hương bất tận của con người đến sự bất hạnh. Bất hạnh vì mình thua trong các phép so sánh ấy, thậm chí, ngay cả khi người ta tìm thấy mình thắng trong mọi phép so sánh dọc quá trình hình thành nhân cách của mình, người đó sẽ trở thành một kẻ tự mãn, kiêu ngạo. Thắng lợi của những phép so sánh như vậy càng lớn bao nhiêu thì con người càng bị cô lập bấy nhiêu đối với những người xung quanh. Nhưng đó chưa phải là đỉnh cao nhất, chưa phải là giới hạn cao nhất của sự bất hạnh. Giới hạn cao nhất của bất hạnh chính là sự phá hoại những điều tốt đẹp. Bởi vì một kẻ nhìn thấy mình hơn thì sẽ tự cho mình quyền coi thường người khác. Khi con người có một cái quyền phổ biến là coi thường những người xung quanh, con người trở nên tha hóa về mặt phẩm chất và cô đơn về mặt tâm lý. Con người ấy còn tệ hơn nữa là xây dựng tất cả các tiềm lực để có thể lộng hành trong việc xây dựng các quan hệ. Liệu những người tham nhũng có hạnh phúc không? Liệu những kẻ buôn lậu, những kẻ buôn bán ma túy có sự thỏa mãn thật về tiền bạc nhưng có hạnh phúc hay không?
Tôi không cho rằng cảm giác thỏa mãn đồng nghĩa với hạnh phúc. Một bữa ăn ngon có thể đem lại cảm giác thỏa mãn, nhưng cũng có thể làm tăng lượng cholesterol và do đó, chưa chắc nó đã mang lại hạnh phúc. Con người vẫn hay nhầm lẫn giữa thỏa mãn và hạnh phúc. Thoả mãn và hạnh phúc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Sở dĩ có sự nhầm lẫn ấy là bởi con người quan niệm về hạnh phúc dựa trên cảm giác chủ quan của số đông. Do vậy, con người không có năng lực nhìn xa, không dự đoán được những rủi ro. Nhiều nhà triết học đã nói đến hiện tượng này, hiện tượng về sự mất giá trị của số đông. Trong một xã hội tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho sự tồn tại của con người thì cảm giác của số đông đôi lúc không còn đúng đắn nữa. Chúng ta đều thấy, báo chí đưa tin rằng, tất cả những kẻ tham nhũng trước khi bị bắt đều được đánh giá là những đảng viên tốt. Đó không phải là sự ngụy biện cho những kẻ tham nhũng mà đấy chính là sự nhầm lẫn của con người về khái niệm Hạnh phúc. Những kẻ đó trước khi bị bắt rất thỏa mãn bởi họ hơn người, muốn cái gì ngon nhất, muốn cái gì đẹp nhất, muốn cái gì hay nhất của cuộc sống họ đều có, họ không nghĩ đến một ngày nào đó có thể bị bắt, không nghĩ đến tương lai trở thành kẻ tội phạm, tức là họ không đủ năng lực nhận ra cái tất yếu nấp đằng sau cái tất yếu hạn hẹp mà họ nhìn thấy. Họ quan niệm rằng cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền, đấy là một tất yếu. Nhưng họ quên mất rằng họ có thể sẽ phải trả giá rất đắt cho sự nhiều tiền ấy. Cảm giác thỏa mãn như vậy thường có bởi người ta không nhận thức được rủi ro.
Trước khi cơn bão ập đến thì biển đẹp và trời trong xanh và ít người nhận ra được đằng sau đó có thể là một cơn bão. Bởi vậy, hạnh phúc phải là cảm giác của con người khi cảm thấy sự yên ổn không chỉ của mình mà của cả những người liên quan đến mình.
Hạnh phúc không phải là cảm giác thỏa mãn thuần túy và nhất thời. Thỏa mãn là một khái niệm bản năng. Nhưng hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái niệm văn hóa. Muốn biết mình hạnh phúc hay bất hạnh, con người phải có được các nền tảng văn hóa hay những kinh nghiệm về hạnh phúc. Đó chính là sự từng trải của con người trước các đối tượng có thể so sánh. Những giới hạn thấp làm cho con người thỏa mãn nhưng không làm cho con người hạnh phúc, bởi vì chỉ cần nhìn lên những giới hạn cao hơn, họ sẽ đau khổ. Vì thế, không vươn tới những sự thỏa mãn lớn hơn cũng có nghĩa là con người không phát triển các nhu cầu của mình, do đó con người không phát triển. Càng thỏa mãn một cách giản đơn bao nhiêu thì chỉ tiêu để xác lập sự chậm phát triển càng rõ rệt bấy nhiêu. Do vậy, chúng ta không nên hiểu sự thỏa mãn một cách đơn giản. Sự thỏa mãn cũng có các cấp độ của nó. Nếu để xác lập một mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thỏa mãn thì tôi cho rằng, hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn. Và phát triển chính là phá vỡ mọi sự thoả mãn đơn giản.
2. Hạnh phúc như là lẽ phải tâm hồn
Quay trở lại ví dụ về sự thỏa mãn của những kẻ tham nhũng, buôn lậu, để biết sự thỏa mãn ấy có đem lại hạnh phúc thật sự hay không, chúng ta phải trả lời câu hỏi: sự thỏa mãn ấy có đúng đắn không? Bởi hạnh phúc không chỉ phản ánh sự tràn ngập cảm giác tốt đẹp hoặc vui vẻ của một con người, hạnh phúc còn là một trạng thái tinh thần thể hiện sự đúng đắn của con người về mặt nhận thức cũng như đạo đức. Con người không thể hạnh phúc khi xác lập cảm giác thỏa mãn của mình trên cơ sở sự hơn người. Hạnh phúc chỉ có được khi con đường đi đến hạnh phúc là đúng đắn và tâm hồn con người yên ổn. Bản chất sự yên ổn của con người chính là người ta tìm thấy sự tốt đẹp trong những người xung quanh. Tìm thấy niềm tin của mình đối với những người xung quanh không chỉ là một trong những nguyên lí căn bản để xây dựng cảm giác hạnh phúc của con người mà còn là nguyên lí căn bản để xây dựng thái độ đạo đức, các nguyên tắc về mặt đạo đức trong khi chung sống. Con người không tìm thấy sự thanh thản, không tìm thấy dấu hiệu hạnh phúc trong đời sống tinh thần, hay không gian tinh thần của con người không tràn ngập cảm giác hạnh phúc thì đó là một dấu hiệu báo động cho mỗi một người rằng anh ta đang sai. Cái sai đấy thể hiện một nguyên lý phổ biến về tính chính xác của năng lực hợp tác, phương pháp hợp tác giữa con người với cộng đồng. Vậy cơ sở của sự đúng đắn là gì? Đó chính là lẽ phải tâm hồn.
Lẽ phải tâm hồn làm cho hạnh phúc trở thành một cảm giác phổ biến. Suy ra cho cùng, đời sống con người là một tập hợp các cảm giác, trong đó, hạnh phúc có mặt và cần phải có ở trung tâm của mọi cảm giác còn lại. Bởi vậy, chúng ta phấn đấu để khả năng hạnh phúc là phổ quát trong mọi trường hợp tương tác giữa con người với con người, hay làm cho hạnh phúc là cảm giác phổ biến trong đời sống tinh thần mỗi người. Nếu có công cụ để tìm ra hạnh phúc trong mọi sự tương tác thì công nghệ ấy cần phải trở thành công nghệ phổ quát, vì chính sự phổ quát của hạnh phúc tạo ra sự khuyến khích con người tiếp tục tồn tại và phát triển. Một con người hạnh phúc là một con người mà cảm giác hạnh phúc phổ quát trong đời sống tinh thần. Do đó, tôi mới nói rằng hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái niệm văn hóa, nó phải trở thành tiêu chuẩn cho sự đúng đắn của con người trong đời sống. Điều đó có nghĩa là con người phải biết tạo dựng hạnh phúc từ lẽ phải tâm hồn của mình.
Lẽ phải của một con người là cảm giác hạnh phúc của chính người đó. Người ta hạnh phúc vì lẽ phải tràn ngập trong tâm hồn. Khi nào hạnh phúc của mỗi người được tạo dựng trên cơ sở lẽ phải tâm hồn thì khi đó, hạnh phúc của từng cá nhân sẽ bồi đắp nên hạnh phúc dân tộc. Tôi cho rằng, khi hạnh phúc trở thành yếu tố phổ quát trong miền tinh thần của một dân tộc thì đấy chính là hạnh phúc chung. Hạnh phúc chung không phải là một không gian có mặt đầy đủ trong từng con người nhưng là một không gian có thật trong hạnh phúc của từng người. Một dân tộc hạnh phúc là một dân tộc tất cả mọi con người đều hạnh phúc, tự tin vào tương lai của mình. Để có được hạnh phúc, điều đầu tiên mà mỗi con người cần làm chính là rèn cho mình năng lực đi tìm lẽ phải, tạo dựng hạnh phúc trên cơ sở lẽ phải tâm hồn.
1. Thế nào là hạnh phúc bền vững?
Nếu con người không có năng lực để đánh giá sự đúng đắn hay xác lập sự đúng đắn trong khi tiến hành các hành vi của mình, con người không thể có hạnh phúc bền vững. Nhận thức được các tất yếu sẽ làm cho con người trở nên đúng đắn. Ví dụ, con người không thể tìm thấy hạnh phúc trong các phép so sánh kém, nhưng con người có thể hạnh phúc nếu tự tin vào những gì mình có. Khi nào con người tự tin đem so sánh với tất cả những người có địa vị như mình thì người ấy có cảm giác hạnh phúc bền vững. Còn nếu con người thấy lép vế trong bất kỳ tương quan cùng địa vị với mình thì người ta không thể đạt được trạng thái hạnh phúc. Người thành đạt hạnh phúc hơn người không thành đạt, nhưng cũng có thể so sánh giữa những người không thành đạt với nhau. Khi một người thấy rằng, có những người trên toàn thế giới có tương quan như mình và cũng có trạng thái như mình thì người đó sẽ không thắc mắc về sự hẩm hiu của mình nữa, không bi kịch hóa sự bất hạnh của mình. Con người cần phải yên tâm với các trạng thái vốn có của mình. Ví dụ, con người chạy đến sát bờ vực, cảm giác thỏa mãn lúc đầu có đến, nhưng khi rơi xuống vực, quá trình rơi từ mép vực xuống đáy cũng đủ thời gian để con người nhận ra rằng hạnh phúc không có được trong các cảm giác chủ quan, mà hạnh phúc có được bằng sự nhận thức cái tất yếu. Nếu con người biết rất rõ sau bờ vực là sự rơi tự do của mình, và nếu người ta chuẩn bị một cái dù để rơi thì con người được quyền hưởng thụ cảm giác hạnh phúc khi bay. Như vậy, con người cần nới rộng khả năng của mình ra khỏi các ranh giới để phát triển. Do đó, hạnh phúc bền vững chính là hạnh phúc được xác lập trên cơ sở con người có được bản lĩnh để duy trì cảm giác ấy trong bất kỳ điều kiện nào mà con người nhận thức đúng.
Sự đúng đắn của con người đem so sánh trong những không gian khác nhau, với những khoảng thời gian khác nhau và nếu như trong những tương quan ấy con người vẫn cảm thấy thỏa mãn thì đấy chính là một dấu hiệu hạnh phúc có chất lượng bền vững, và nếu nó không lạc hậu về mặt thời gian thì sự bền vững ấy còn lớn hơn. Như thế, hạnh phúc là một khái niệm cực kỳ tinh tế trong phân tâm học. Hạnh phúc là cảm giác có thực, cảm giác của lẽ phải và nó mô tả được tính triển vọng sau này. Bởi vì, nếu như hạnh phúc là giả thì nó chuyển sang tự mãn. Vậy làm thế nào để con người phân biệt được thước đo mà mình lựa chọn? Cái thước đo mà con người lựa chọn hoàn toàn lệ thuộc vào kinh nghiệm của mình. Nếu con người có lác đác một vài cảm giác hạnh phúc thì đó chưa phải là người hạnh phúc. Người hạnh phúc là người tìm thấy tính phổ biến của công nghệ tìm ra hạnh phúc, nếu có sự tương đồng giữa cảm giác hạnh phúc của mình và đối tượng mà mình tương tác thì người đó sẽ thấy hạnh phúc của mình là hạnh phúc chắc chắn. Vì, nếu không có sự tương đồng thì cảm giác hạnh phúc của người đó là chủ quan. Mà cảm giác chủ quan không phải là lẽ phải và do đó không phải là hạnh phúc thật.
Con người nhầm lẫn hạnh phúc là sự thỏa mãn, do vậy, khi không còn cảm giác thỏa mãn nữa thì con người thấy hạnh phúc mong manh. Có một bức tranh của một họa sĩ Nga vẽ một cái ghế bị cưa cụt một chân, trên đó đặt một quả táo. Người ta giải thích tác giả muốn ngụ ý rằng quả táo đó là tượng trưng cho hạnh phúc, có nghĩa là hạnh phúc luôn chênh vênh và mỏng manh. Thực ra, bền vững là một quá trình, mong manh là một trạng thái. Nhận thức về sự mong manh của những cái mình có chính là sự thức tỉnh vĩ đại để nói với con người rằng: hãy cảnh giác, hãy bớt một phần hưởng thụ cảm giác hạnh phúc để giữ gìn hạnh phúc. Bởi vì, nếu như người ta hưởng thụ hạnh phúc một cách tuyệt đối thì thành thỏa mãn và đó chính là nền tảng của tự mãn, nhưng nếu như người ta không hưởng thụ hết tất cả cái vốn liếng mà mỗi một cảm giác hạnh phúc mang lại, người ta cảnh giác để giữ gìn nó thì con người sẽ có được sự bền vững của hạnh phúc. Điều đó có nghĩa là, con người phải biết đổi từng mẩu hạnh phúc có hàng ngày lấy một sự cảnh giác để giữ gìn nó. Cho nên. mong manh và bền vững là hai thuộc tính của khái niệm hạnh phúc. Khi con người có lẽ phải và lẽ phải ấy là phù hợp với những không gian, thời gian khác nhau thì con người có hạnh phúc bền vững. Hạnh phúc bền vững là hạnh phúc thực sự và đó là mục tiêu của cuộc sống con người, mục tiêu của sự phát triển.
2. Hạnh phúc bền vững - miền chung sống giữa thành tựu và triển vọng
Ở đâu có sự chung sống giữa niềm tự hào về dĩ vãng với năng lực tạo ra miền triển vọng thì ở đấy có hạnh phúc. Tôi cho rằng, xét về mặt cấu trúc các yếu tố hợp thành hạnh phúc thì hạnh phúc bền vững là một không gian tinh thần mà ở đấy có sự chung sống, sự hợp tác giữa quá khứ và tương lai, giữa thành tựu và triển vọng. Chúng ta đều biết, nếu con người không có quá khứ thì con người không có niềm tự hào, dĩ vãng hay sự thành công tạo ra một trong những nền tảng vững chắc của hạnh phúc. Không có quá khứ, hay quá khứ là một hoang mạc thì con người đi đến tương lai như một kẻ vất vưởng, nhưng nếu con người có thành tựu, có quá khứ hào hùng thì họ đi đến tương lai như một người chiến thắng. Và con người có duy trì được hạnh phúc đó trong tương lai hay không là tuỳ thuộc vào triển vọng của họ như thế nào. Do đó, hạnh phúc là mảnh đất có sự chung sống giữa thành tựu và triển vọng.
Tuy nhiên, hạnh phúc mà con người mong chờ lại luôn nằm ở tương lai. Con người tìm thấy hạnh phúc khi con người nhận ra được lợi ích về tương lai. Con người không thể tìm thấy lợi ích trong quá khứ, vì quá khứ là một miền thật đã qua. Phải ăn tạm các món của dĩ vãng chính là một trong những dấu hiệu bất hạnh của cả cá nhân lẫn cộng đồng. Vì thế, con người chỉ hạnh phúc thật sự khi tìm được lối thoát hợp lý cho mình tại mỗi một thời điểm mà con người có trách nhiệm phải tìm ra phương hướng cho tương lai. Toàn bộ sự sáng suốt của con người là tìm ra khuynh hướng phát triển. Khuynh hướng đúng là con người phá vỡ được các giới hạn của khả năng để phát triển và tìm thấy được những giới hạn khác cao hơn. Như vậy, không phải thành tựu mà chính triển vọng mới là dấu hiệu cơ bản của hạnh phúc bền vững.
Năng lực triển vọng nằm trong chính sự đa dạng tinh thần của mỗi người. Tôi lấy ví dụ, nếu một nhà thơ chỉ biết làm thơ thì anh ta trói buộc năng lực của mình vào thơ. Nhưng nếu cuộc sống thay đổi, anh ta không còn là nhà thơ nữa mà đi làm một công việc khác thì làm công việc khác ấy là một năng lực mới trong miền triển vọng của người đó. Đấy là sự đa dạng tinh thần. Ở đây, tôi muốn nhắc lại rằng đa dạng tinh thần phải là những năng lực sống luôn tồn tại và phát triển trong một con người. Bởi vì con người sẽ đến miền triển vọng của mình không chỉ với tư cách là người có năng lực để tồn tại trong đó mà còn là người giữ được giá trị của dĩ vãng. Hạnh phúc trọn vẹn khi con người đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu của mình. Những người sử dụng lao động luôn luôn tìm cách làm cho năng lực lao động trở nên chuyên nghiệp. Tuy nhiên, con người bị khai thác chuyên nghiệp thì dễ phiến diện và không phải là con người chủ động. Con người ấy không có hạnh phúc, con người ấy chỉ tồn tại. Con người ở những nước lạc hậu vẫn nhầm lẫn giữa tồn tại và hạnh phúc. Sự tồn tại trong bất kỳ điều kiện nào không phải là hạnh phúc, mà sự tồn tại như mình vốn có trong bất kỳ điều kiện nào mới chính là hạnh phúc.
Người hạnh phúc là người chủ động, người biết rất rõ lộ trình sống, lộ trình làm việc, lộ trình cống hiến, lộ trình thưởng thức của mình và người ta thưởng thức một cách hợp lý tất cả những yếu tố mà cuộc sống đem lại. Nội dung sống của con người là kiểm soát hàng ngày những gì mình chịu trách nhiệm và cái vĩ đại của một con người chính là sự bám riết lấy cuộc sống đó. Cuộc sống mà con người chịu trách nhiệm càng dài, càng rộng bao nhiêu thì con người càng vĩ đại bấy nhiêu. Cho đến cuối cuộc đời, con người sẽ tìm đến một miền triển vọng mới, đó là Chúa, là Thượng Đế. Miền triển vọng lớn nhất và vô tận nhất của con người chính là thiên đường. Con người tự tin vào giây phút mình từ giã cuộc sống chính là tin mình sẽ đến một miền cao thượng hơn cái miền đã có. Năng lực phát triển lớn nhất của con người chính là năng lực để đi vào các miền cao thượng của đời sống con người. Mà để thiết kế ra tương lai hay để có được năng lực triển vọng, con người phải có tự do.
III. Sự hoà hợp của những không gian tự do - Điều kiện của hạnh phúc
Nói về vai trò của không gian tự do, Natan Sanransky đưa ra thuyết quảng trường, cho rằng nếu một người đến đó bày tỏ quan điểm của mình mà ra khỏi đó vẫn tự do thì ở đấy, con người có tự do. Như thế nghĩa là, Natan Shanransky nói đến tự do nhưng hướng tới sự kiểm soát bên ngoài, khi không gian tự do bên ngoài cho phép con người hành động như mình muốn thì con người có tự do. Có thể nói, cũng vì hiểu như vậy nên một trong những công cụ phổ biến mà loài người đã sử dụng trên quy mô lớn để tìm kiếm tự do, hạnh phúc là các quyền con người. Đầu tiên, người ta đòi một nền cộng hòa, chúng ta biết, tác phẩm gần như nổi tiếng nhất trong lịch sử triết học là quyển "Cộng hòa" của Plato. Một nền cộng hòa không phải là một nhà nước quân chủ mà là nhà nước của đại bộ phận dân chúng, ở đấy các quyền được phân bố lên trên người dân, và người ta không dành cho ai một quyền quyết định tối hậu. Tuy nhiên, ngay cả khi các quyền ấy đã thuộc về con người rồi mà họ vẫn không có hạnh phúc, xét đến cùng, là bởi con người chưa nghiên cứu được một cách rành mạch các không gian hỗ trợ hạnh phúc. Người ta vẫn nói đến không gian tự do bên ngoài như là các quyền mà quên mất rằng, nếu không có không gian tự do bên trong thì không gian bên ngoài cũng trở nên vô nghĩa. Hơn nữa, nếu không gian bên ngoài nhỏ hơn không gian bên trong, con người sẽ không cảm thấy tự do. Nói một cách chính xác, nếu bên ngoài mà không có không gian tự do thì bên trong, con người cũng vẫn có không gian tự do nhưng đó là sự gồng mình của tự do. Tôi đã đưa ra một định nghĩa: Tự do là sự dịch chuyển song song giữa ý nghĩ và hành vi. Để có được sự dịch chuyển đó thì không gian tự do bên trong và không gian tự do bên ngoài phải thống nhất với nhau. Đó là hai không gian, nhưng không gian nọ là ảnh của không gian kia. Hai không gian ấy có mối liên hệ hàm số với nhau một cách tự nhiên. Không gian bên trong chính là động lực của tự do, còn không gian bên ngoài chính là điều kiện của tự do. Khi động lực phù hợp với điều kiện thì con người mới phát triển và mới tạo ra hạnh phúc.
Chúng ta đã biết, không gian tự do bên ngoài chính là hoàn cảnh khách quan được thể hiện tập trung bằng chính sách, thể chế và luật pháp. Chúng vừa kiểm soát, vừa hạn chế, vừa xúc tiến con người phát triển. Tôi cho rằng không gian tự do bên ngoài là điều kiện phổ biến của hạnh phúc. Vì rõ ràng, không gian tự do bên ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến hạnh phúc của tất cả mọi người. Không gian bên ngoài hay không gian khách quan của khái niệm tự do quan trọng không kém gì, thậm chí còn quan trọng một cách phổ biến hơn không gian tự do bên trong, tức là không gian tinh thần.
Nhưng chúng ta phải ý thức rất rõ rằng, con người sẽ không có và không cần không gian tự do bên ngoài nếu không gian bên trong bằng không, tức là con người không có nhu cầu về tự do. Không gian tự do bên trong của đời sống tinh thần chính là quyền ra khỏi bản thân mình, quyền linh hoạt dịch chuyển ý nghĩ và thay đổi khuynh hướng của mình. Con người phát triển được hay không phụ thuộc rất nhiều vào không gian tự do ấy. Tự do với chính mình nghĩa là con người không trói buộc mình, có khả năng tự giải phóng để đảm bảo tương lai hay tìm ra các khuynh hướng dịch chuyển tạo nên triển vọng. Vì thế, không gian tự do bên trong chính là điều kiện căn bản của hạnh phúc. Vậy, làm thế nào để miền tinh thần có sự dịch chuyển và dịch chuyển đến miền triển vọng? Nếu chúng ta nhìn sự dịch chuyển của con người và đánh dấu các tọa độ tinh thần, chúng ta sẽ tìm ra khuynh hướng dịch chuyển. Khi các tọa độ tinh thần của một người không đi theo những khuynh hướng mà xã hội xác nhận như là những khuynh hướng tích cực thì người ấy không có tự do bên trong, tức là không có tự do thuộc về miền tinh thần của mình. Chúng ta biết con người vẫn thường có những nhầm lẫn trong nhận thức về hạnh phúc. Nếu con người không có tự do bên trong tâm hồn thì con người không ra khỏi những thói hư tật xấu hay những nhầm lẫn của mình. Bởi vậy, miền tinh thần phải là một miền tự do để con người có thể thay đổi ý nghĩ, có thể nhẹ nhàng dịch chuyển từ nhận định này, nhận thức này, kết luận này sang nhận định khác, nhận thức khác và những kết luận khác.
Không gian tự do bên trong và không gian tự do bên ngoài không phải có mối tương quan theo tỉ lệ 50/50 mà đó là hai miền khác nhau. Và thậm chí, cái miền bên ngoài, miền khách quan càng hẹp thì miền bên trong càng lớn. Bởi vì con người có nhu cầu lang thang, nếu không lang thang được ở không gian khách quan bên ngoài thì người ta phải lang thang trong tâm hồn. Con người càng ít tự do với thể chế bao nhiêu thì con người càng tôn trọng tự do bên trong của mình bấy nhiêu, và họ trở thành những người thâm trầm sống bằng nội tâm. Sống bằng nội tâm là thả mình vào miền tự do bên trong của đời sống tinh thần. Đấy là nơi cư trú của con người tạm thời chưa có tự do bên ngoài. Nhưng một khi con người còn chưa có không gian tự do bên ngoài thì con người không thể phát triển được. Phát triển chính là sự hòa hợp giữa không gian tự do bên trong và không gian tự do bên ngoài. Ở nơi nào không gian khách quan và không gian tinh thần hỗ trợ được lẫn nhau thì nơi đó có sự phát triển, có nền tảng vững chắc của hạnh phúc con người.
Chúng ta không thể đo đạc được không gian bên trong của mỗi một cá thể, bởi vì mỗi người có nhu cầu tự do hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy, có một điều chung cho tất cả mọi người, đó là, khi con người có tự do bên ngoài mà tự do bên trong co lại thì đó là sự sử dụng lãng phí không gian tự do. Vậy làm thế nào để phát triển tự do? Phát triển tự do chính là phát triển năng lực tồn tại của không gian tự do bên trong như là động lực thúc đẩy con người hành động, đồng thời đòi hỏi con người phải sử dụng một cách không lãng phí và có trách nhiệm đối với không gian tự do bên ngoài. Các không gian cá thể, tức là không gian tinh thần của con người rất khác nhau, do đó không gian bên ngoài phải là đường bao các không gian bên trong. Không gian tự do ở bên ngoài tức là không gian điều kiện bao giờ cũng phải đủ lớn để thoã mãn sự đòi hỏi của số đông con người. Nếu không gian bên trong có chất lượng bản năng thì không gian bên ngoài hoàn toàn có chất lượng điều khiển. Vì là một không gian có chất lượng điều khiển tức là một không gian nhân tạo cho nên không gian điều kiện phải luôn luôn được thể chế hoá, mà thể chế hoá tự do như là không gian điều kiện chỉ có thể bằng nhà nước dân chủ. Những nhà khoa học phương Tây từ lâu đã quy tự do thành ra không gian các quyền. Nhưng chưa có ai chỉ ra được rằng tạo ra cảm giác tự do, tạo ra không gian bên trong chính là tạo ra động lực để gìn giữ sự hữu ích của không gian các quyền. Nếu xã hội không tập hợp đủ quần chúng tự giác về việc đảm bảo không gian quyền của mình, thì xã hội cũng không đảm bảo được tính phổ biến của việc cần phải xây dựng ý chí cho mỗi cá thể để tạo ra nhu cầu, tạo ra năng lực khai thác hết không gian tự do. Do đó, khi phấn đấu vì hạnh phúc của con người thì chúng ta phải phấn đấu để nới rộng cả hai không gian ấy, và lợi ích mà xã hội nhận được chính là sự phát triển.
Các không gian của tự do tạo nên hai miền gắn bó với hạnh phúc con người. Chúng ta thấy rằng, không gian tự do bên trong phát triển như thế nào không chỉ tuỳ thuộc vào năng lực của mỗi người mà còn phụ thuộc vào cả không gian tự do bên ngoài. Do vậy, một trong những cách nới rộng tự do bên trong của con người là hỗ trợ tự do cho họ từ không gian bên ngoài, không gian khách quan. Không gian khách quan chính là môi trường mà ở đó con người có quyền tự do để mưu cầu hạnh phúc. Do đó, cần phải xác lập một không gian chính trị, tức là không gian bên ngoài để con người có các quyền chính đáng cho việc mưu cầu hạnh phúc, còn năng lực tìm kiếm hạnh phúc thì tuỳ thuộc vào mỗi con người và vì thế tuỳ thuộc vào mỗi dân tộc. Con người đấu tranh để có được quyền tự do tìm kiếm hạnh phúc và quyền ấy được thâu tóm trong tuyên ngôn nhân quyền. Nếu con người không có các quyền cơ bản để mưu cầu hạnh phúc, thì con người có đi tìm kiếm cũng không ra hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một khái niệm triết học thuần túy, nó là một khái niệm chính trị, nó lệ thuộc vào sự tăng trưởng năng lực của con người mà sự tăng trưởng đó gắn liền với tự do và quyền trao đổi để có kinh nghiệm. Chúng ta không có tất cả các quyền để tìm kiếm hạnh phúc thì làm sao chúng ta có hạnh phúc, chúng ta có chuẩn bị bao nhiêu năng lực đi nữa để đi kiếm hạnh phúc thì các năng lực ấy cũng không được ứng dụng trong không gian chính trị mà con người tồn tại. Bởi vậy mới có sự dịch chuyển, sự ra đi, mới có những dòng di dân. Người ta tìm đến những không gian mà ở đó quyền tìm kiếm hạnh phúc được xác lập. Vì thế, tự do đặc biệt quan trọng. Con người cần phải có tự do để mưu cầu hạnh phúc. Tự do và hạnh phúc là hai khái niệm khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ mật thiết và đôi khi trùng nhau.
Trên thực tế, tự do không chỉ thể hiện ở các quyền đã được pháp luật thừa nhận mà tự do còn thể hiện ở các thói quen văn hóa. Đôi khi, những thói quen văn hóa làm cho con người không thật thanh thản, nghĩa là con người mất dần hạnh phúc. Chúng ta đều cảm nhận được sự mong manh của hạnh phúc và vì thế, để có được hạnh phúc bền vững thì phải có cả tự do bên ngoài và tự do bên trong. Tự do bên ngoài là sự khẳng định các quyền của mình. Tự do bên trong là sự tự giải phóng mình ra khỏi các ràng buộc văn hóa. Nếu việc hoàn thiện không gian tinh thần, không gian bên trong là hoàn thiện năng lực của con người thì hoàn thiện tự do bên ngoài là công việc giải phóng con người. Như vậy, tự do là không gian mà ở đấy con người không bị áp đặt, con người tự mình cân bằng với chính mình và tự mình cân bằng với cuộc sống. Tuy nhiên, tự do cũng vẫn là phương tiện, tự do không phải là mục đích. Mục đích cuối cùng của con người là hạnh phúc. Bởi vì, mọi thứ đi vào con người phải tạo ra sản phẩm của nó, thành phẩm hoàn chỉnh nhất cho mọi sự tương tác của con người với thiên nhiên và xã hội là cảm giác hạnh phúc. Nếu như không vì mục đích muốn có được hạnh phúc thì con người cần tự do để làm gì? Tự do là một cấu trúc có nội hàm hết sức phức tạp, nhưng để truy tìm xem hạnh phúc của con người nằm ở đâu thì chúng ta phải thấy được vai trò của những không gian tự do, không gian tự do bên trong và không gian tự do bên ngoài. Đấy là hai không gian không thể thiếu được, đặc biệt, không thể coi nhẹ bất kỳ một không gian nào trong việc hỗ trợ và tạo ra hạnh phúc của con người.
* *
*
Hạnh phúc là đầu ra của toàn bộ quá trình phấn đấu của con người với tư cách là một cá nhân và với tư cách là một thành viên của một cộng đồng người, một cộng đồng dân tộc, một cộng đồng quốc gia. Hạnh phúc không phải là một cảm giác tĩnh, hạnh phúc luôn luôn là một cảm giác động trong không gian và theo thời gian. Do vậy, hạnh phúc là cả một quá trình có chất lượng biện chứng. Tôi cho rằng sự thiển cận của con người nằm ở chỗ nhiều người chỉ biết thưởng thức những hạnh phúc mình có ngày hôm nay. Họ không nỡ làm vẩn đục cảm giác yên tâm của ngày hôm nay bằng cách tạo ra sự lo toan cho ngày mai. Con người có cảm giác hạnh phúc trọn vẹn trong ngày hôm nay nhưng con người sẽ có một cuộc đời trọn vẹn nếu con người biết lo nghĩ đến cả cuộc đời chứ không phải chỉ lo nghĩ đến một ngày. Hạnh phúc là sự vươn tới những vẻ đẹp khác nhau của đời sống tinh thần.
Mong muốn tìm được cái khác cao hơn, hay hơn là động lực sống, động lực của mọi sự phát triển, đặc biệt là sự phát triển con người. Chúng ta cần phải xây dựng lý thuyết để mô tả sự ham muốn lớn hơn, hay nói cách khác là sự vươn tới. Có một bức tranh rất nổi tiếng vẽ hai bàn tay với tới nhau, bàn tay ở dưới là của con người, bàn tay ở trên là của thần thánh. Vươn tới là bản chất của con người, là sự thánh thiện của con người, là sự đúng đắn của con người, còn nâng đỡ và khuyến khích là bản chất thần thánh. Sự vươn tới chính là giá trị cao quý của con người, là động lực của sự phát triển con người. Con người biết vươn tới là con người có triển vọng. Con người không có các bằng chứng về sự thành công của mình trong các thành tựu thì con người không có năng lực và ý muốn vươn tới các triển vọng.
Về mặt triết học, vươn tới những giá trị cao hơn chính là bản chất hướng thiện, là phẩm hạnh quan trọng nhất mà con người cần phải có trong hành trình đi tìm hạnh phúc. Con người phải vươn tới những giới hạn mà người ta không thể thỏa mãn được, và chính trong quá trình ấy, con người chiến thắng mình và chiến thắng tất cả những gì cản trở mình, điều đó làm cho hạnh phúc trở nên đúng đắn. Hạnh phúc nằm ngay trong chính khát vọng vươn tới sự hoàn thiện của con người. Con người hoàn thiện mình, hoàn thiện các sản phẩm của mình, và hoàn thiện các rung động của mình, đấy chính là cuộc hành hương vĩ đại của mỗi một con người để kiếm tìm hạnh phúc cho mình và cho cả cộng đồng.