Phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
08:36 CH @ Chủ Nhật - 13 Tháng Tư, 2008
Cái nhìn tổng quan về nền kinh tế

Hoạt động kinh tế theo kế hoạch hay tự do trước hết là do kinh nghiệm và ý thức của con người. Trong bản năng của chúng ta chứa đựng cả hai yếu tố này. Nếu chúng ta phê phán một cách nhầm lẫn công tác kế hoạch một nền kinh tế với nền kinh tế kế hoạch thì chúng ta làm mất đi sự hào hứng của những nhà chính trị thời chuyển đổi vốn dĩ có rất ít kinh nghiệm về một nền kinh tế thị trường tự do. Đi tới nền kinh tế thị trường tự do như từ sông ra biển, thực tế lịch sử đã cho thấy không phải ai cũng dám hành động như vậy. Sự vụng về của quá trình đến với biển cả cần phải được khuyến khích như là biểu hiện của lòng dũng cảm. Những người cộng sản Việt Nam đã dũng cảm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch. Mở cửa và đổi mới là hành động chính trị dũng cảm nhất từ trước đến nay. Cho dù Việt Nam đã chiến thắng trong nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm nhưng để tiến hành các cuộc chiến tranh ấy vẫn là những kinh nghiệm trước đó, còn Mở cửa và Đổi mới thì chưa có tiền lệ, vì vậy đương nhiên phải có những chập chững thậm chí là loạng choạng. Cho đến nay, có thể khẳng định rằng Mở cửa và Đổi mới là quá trình không thể đảo ngược và đã mang lại luồng sinh khí mới cho mọi lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam.

Nếu chúng ta xem nền kinh tế kế hoạch là một hiện tượng cực đoan thì việc phê phán một cách quyết liệt cái yếu tố kế hoạch của một nền kinh tế cũng cực đoan không kém. Chúng ta cần phải phân biệt nền kinh tế kế hoạch với yếu tố kế hoạch của một nền kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào muốn tiết kiệm thì đều phải có kế hoạch để phát triển kinh tế. Sự khác nhau cơ bản giữa yếu tố kế hoạch của một nền kinh tế và nền kinh tế kế hoạch là ở chỗ nào? Bất kỳ một người có lương tri, có khát vọng trí tuệ đều phải nhận thức được điểm quan trọng này. Nhiều người phê phán rất cực đoan nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Thực ra chúng ta đã huỷ bỏ nền kinh tế kế hoạch từ 15 năm nay rồi nhưng chúng ta vẫn có những yếu tố kế hoạch của một nền kinh tế không kế hoạch nữa. Tất nhiên chúng ta vạch kế hoạch cho một nền kinh tế tự do một cách còn vụng về bởi vì chúng ta còn ít kinh nghiệm về việc này. Một số người phê phán Đảng cộng sản Việt Nam chưa ra khỏi nền kinh tế bao cấp, nhưng cần phải nhận thức rằng trên thực tế Việt Nam không thể ra khỏi nền kinh tế bao cấp ngay lập tức. Vì từ bỏ nền kinh tế kế hoạch mới chỉ có ý nghĩa như từ bỏ một ý chí chính trị và vì vậy cần phải có thời gian để khắc phục và sửa chữa những sai lầm của quá khứ.

Kinh tế tư nhân tại Việt Nam - chiếc phao cấp cứu nền kinh tế

Tại sao kinh tế Việt Nam nhỏ yếu nhưng lại không đổ vỡ sau khi hệ thống XHCN sụp đổ? Chúng ta có thể tìm ra lời giải đáp cho hiện tượng có vẻ kỳ lạ này ở kinh tế tư nhân. Trên thực tế, kinh tế tư nhân tại Việt Nam đóng vai trò như chiếc phao an toàn hay là tấm đệm chống rủi ro khi kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng trong thập kỷ 80. Lý do giải thích cho việc Việt Nam không bị thảm họa của sự sụp đổ như nhiều nước XHCN Đông Âu là do trong thời kỳ chiến tranh chính phủ chỉ quản lý kinh tế một cách phiến diện, trên thực tế nền kinh tế kế hoạch của Việt Nam chưa bao giờ thành công và cũng chưa bao giờ được quản lý trọn vẹn. Tính không trọn vẹn, không thành công trong việc quản lý một nền kinh tế kế hoạch trong quá khứ đã làm cho các yếu tố tư nhân của kinh tế Việt Nam vẫn nhen nhúm trong lòng nền kinh tế kế hoạch. Sự tồn tại của các yếu tố tư nhân trong nền kinh tế kế hoạch làm cho nền kinh tế Việt Nam không sụp đổ như nền kinh tế của các nước Đông Âu. Nó không chết nhưng để đổi mới triệt để thì Việt Nam làm chậm hơn các nước Đông Âu bởi vì người Việt Nam chưa nhận thức được đầy đủ những vấn đề của kinh tế tư nhân. Trên thực tế, năng lực nhà nước chưa đủ để quản lý xã hội, đặc biệt là quản lý kinh tế chặt chẽ kể cả theo xu hướng kế hoạch tập trung lẫn cả xu hướng tự do. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp. Tuy nhiên, chính trạng thái lạc hậu lại cho các nhà chính trị Việt Nam có quyền tự do lựa chọn các phương án. Nếu các yếu tố bản năng ấy không tồn tại thì sẽ không còn phương án nào và kết quả đi đến sự lệ thuộc nước ngoài là chắc chắn. Tuy nhiên, các yếu tố bản năng của đời sống tư nhân ở Việt Nam còn tồn tại và tồn tại khá mạnh. Trong thời kỳ bao cấp, nó đóng góp khoảng 40 -50% trong cơ cấu nguồn sống của từng gia đình. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch, thị trường ngầm (chợ đen) tại Việt Nam vẫn luôn hoạt động, thậm chí có sự tiếp tay trực tiếp hoặc gián tiếp của các cán bộ có chức quyền ở nhiều cấp. Tại chợ đen, người ta buôn bán, phe phẩy các hàng hóa được phân phối và cả tem phiếu. Vào thời điểm ấy, nhiều người lên án những hành vi "trái đạo đức" này nhưng thực ra, nếu sáng suốt người ta phải nhận thấy đó là sự may mắn và hạnh phúc cho dân tộc, bởi vì những bản năng vụ lợi cơ bản không bị mất đi và nó được bảo tồn như người ta phải bảo tồn gen quý trong những điều kiện bất lợi của ngoại cảnh. Điều trớ trêu là chính nền kinh tế ngầm, nền kinh tế phe phẩy mà người ta ra sức chê bai và muốn xoá bỏ lại là cứu cánh giữ cho kinh tế và xã hội Việt Nam không bị sụp đổ sau khi Liên Xô tan rã.

Những nghịch lý trong nền kinh tế Việt Nam

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều nhân tố mới đang hình thành nhưng đất nước vẫn còn ngổn ngang nhiều di sản của quá khứ, Nhà nước và nhân dân đang phải chung sống với trong bối cảnh của nhiều nghịch lý đang tồn tại. Việt Nam đi nhanh hay chậm, tiến nhanh đến tương lai hay vẫn luẩn quẩn với quá khứ, điều này tùy thuộc rất nhiều vào thái độ và phương pháp xử lý những nghịch lý này.

Gia tăng giá trị hay đầu cơ để phát triển? Có thể nói rằng tại Việt Nam hiện nay chưa có cái gì được gọi là các yếu tố cấu thành một nền kinh tế theo đúng nghĩa, tức là tạo ra giá trị gia tăng trên quy mô tổng thể của toàn xã hội và cả nền kinh tế. Xét theo quan điểm như vậy thì Việt Nam chưa có nền kinh tế chuyên nghiệp của mình. Bản chất hay dấu hiệu của một nền kinh tế lành mạnh chính là các giá trị được gia tăng trong quá trình hoạt động của nó. Nhưng từ trước đến nay kinh tế Việt Nam chủ yếu gia tăng bằng gì? Bằng đầu cơ. Chúng ta có thể lấy ví dụ trong sản xuất nông nghiệp vốn là nguồn sống của khoảng 80% người dân Việt Nam. Người ta thu mua thóc gạo của nhân dân giá rẻ, xuất khẩu giá cao và quá trình mua thóc bán gạo độc lập rồi quá trình nhập phân, bán phân. Trong khi chúng ta tạo ra một sự gia tăng giả tạo bằng đầu cơ lúa gạo thì chúng ta cũng tạo ra một giá trị gia giảm trong quá trình nhập vật tư cần thiết cho nông nghiệp. Hai quá trình này được tiến hành bởi những cơ quan và tổ chức khác nhau cho nên người ta không nhận thức được sự gia tăng thật sự của kinh tế nông nghiệp. Cơ quan thống kê và các cơ quan chức năng cũng không dám ghép hai quá trình này làm một để thông báo về tính không gia tăng của quá trình sản xuất.

Phát triển nhanh hay đốt cháy giai đoạn? Việt Nam là một quốc gia lạc hậu. Trong quá khứ Việt Nam chưa bao giờ thực sự tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế. Chúng ta như một kẻ băn khoăn giữa ngã ba đường, thậm chí đang loay hoay giữa tiến trình phát triển toàn cầu như vũ bão trước đây cũng như hiện nay. Chúng ta nhận thức không đến đầu đến đũa nhưng đầy rẫy mặc cảm, sĩ diện và do đó chúng ta rơi vào tình trạng trì trệ. Chúng ta loay hoay đi tìm cái giá trị của mình mà quên mất giá trị là kết quả của những thành tựu chứ không phải là kết quả của quá trình giữ các thành tích, bởi vì thành tích là của người khác. Chúng ta đang sống giữa vô số nghịch lý và các hiện tượng kinh tế quái gở vì chúng ta đã tạo ra một trào lưu thông tin giả tạo, và tất yếu dẫn đến những hành vi xử lý thiếu hiệu quả, xa rời thực tế. Người dân đổ xô đầu tư vào những hoạt động kinh tế phi kinh tế như nạn đầu cơ bất động sản làm bơm lên những trạng thái phi thị trường của một nền kinh tế còn ốm yếu. Tất nhiên, hậu quả sẽ là những phản ứng dây chuyền lan từ ngành kinh tế này sang nền kinh tế khác, đặc biệt là ngành ngân hàng vốn luôn ốm yếu và nếu rời khỏi cái vòi trợ cấp của nhà nước chắc chắn sẽ không thể tồn tại.

Vai trò chủ đạo và năng lực cạnh tranh yếu kém của kinh tế nhà nước. Về bản chất, xã hội Việt Nam là một xã hội đang chuyển đổi từ hình thức cực đoan của thời chiến sang một hình thức bình dị trong đời sống hòa bình. Trong quá trình dịch chuyển như vậy khu vực kinh tế nhà nước đã được xây dựng trong quá khứ vẫn đóng vai trò chủ chốt trong quá trình dịch chuyển của đời sống xã hội Việt Nam và đương nhiên cả trong quá trình dịch chuyển về kinh tế. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam phát triển kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ chỉ trở thành hiện thực khi khu vực kinh tế nhà nước nâng cao được sức mạnh cạnh tranh. Tính cạnh tranh thấp luôn là điểm yếu cơ bản của kinh tế nhà nước. Đó là nguy cơ rất lớn không chỉ đối với chính khu vực kinh tế nhà nước mà cho cả nền kinh tế Việt Nam. Nhược điểm này có thể được che đậy trong nền kinh tế kế hoạch nhưng ngày nay tình hình đã đổi khác, Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu vào các quá trình kinh tế quốc tế, chúng ta buộc phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Liệu có thể để tồn tại tình trạng cứ chi ngân sách một cách vô điều kiện mà không mấy cải thiện, nâng cao được nhưng tính cạnh tranh của kinh tế nhà nước?

Sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn

Tại Việt Nam hiện do ảnh hưởng của hệ thống lý thuyết cũ kỹ người ta đã phân loại rạch ròi kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư nhân. Cách phân loại như vậy làm cho cách nhìn xã hội trở nên méo mó. Nhà nước đòi chỉ huy và chỉ huy cả sự phân loại xã hội đối với các khu vực khác nhau của đời sống kinh tế. Quan niệm Việt Nam có một nền kinh tế nhiều thành phần: nhà nước, tập thể, tư nhân rồi có sự kết hôn lai tạo giữa cả ba khu vực cơ bản này vẫn mang nặng định kiến từ quá khứ. Trên mặt trận lý luận, nhiều vấn đề người ta không dám đi tiếp trong đó có quan điểm lý luận về kinh tế tư nhân vẫn chưa hoàn toàn được giải quyết; hàng loạt các câu hỏi còn chưa có lời giải đáp. Đảng viên có được làm kinh tế tư nhân không? Phát triển kinh tế tư nhân tới cỡ nào? Kinh tế tư nhân lớn mạnh có làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa không? Thế nào là bóc lột? Các chủ doanh nghiệp tư nhân có được kết nạp vào Đảng không?

Nhiều năm nay, giới lý luận Việt Nam vẫn không ngớt lời bàn cãi. Có người bảo đúng, cũng có kẻ bảo sai và chắc rằng giới lý luận còn phải tranh luận nhiều năm nữa để đi tới quan điểm thống nhất. Nhưng cuộc sống thì không chờ ai. Nếu các nhà lý luận chịu khó nhìn vào thực tế hơn một chút sẽ thấy cuộc sống không quá phức tạp và nan giải như họ tưởng. Cuộc sống có quy luật và sự phát triển riêng của nó. Nếu thực sự cầu thị chúng ta hẳn thấy rằng hàng ngày bao nông dân Việt Nam đang làm kinh tế tư nhân và trong số họ có rất nhiều người là cộng sản, những người từng đổ bao máu xương để góp phần giải phóng dân tộc và những Đảng viên nay chắc chắn không mảy may day dứt như các nhà lý luận vì một lẽ đơn giản kinh tế tư nhân là cuộc sống tự nhiên của họ. Tất nhiên, quy mô kinh tế tư nhân của nông dân Việt Nam còn bé nhỏ nhưng theo quy luật phát triển chung thì không ai có thể nghi ngờ triển vọng và tiền đồ to lớn của nó. Kinh tế tư nhân Việt Nam cũng không có con đường nào khác ngoài con đường phát triển lên những hình thái có quy mô lớn và dạng thức hiện đại của thời đại.

Để có một khu vực kinh tế tư nhân hùng mạnh

Sau hơn một thập kỷ đổi mới và mở cửa, Việt Nam hiện có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao hơn, nhưng cũng như tại hầu hết các nước đang phát triển, thế và lực của kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé so với các nước phát triển. Không nhận thức được mình, chúng ta đặt ra quá nhiều mục tiêu, quá nhiều tham vọng cho phát triển kinh tế. Tất cả các sai lầm của chúng ta là ở chỗ chúng ta tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa với tư cách là một kẻ sĩ diện, một kẻ cần được thế giới đánh giá và công nhận giá trị nào đó. Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập với quan điểm thực tế hơn. Nếu chúng ta xây dựng một nền kinh tế, xây dựng những chỉ tiêu để tạo ra chỗ đứng chính trị ở trong đời sống xã hội thì chúng ta luôn luôn sai lầm. Chúng ta phát triển kinh tế vì con người, năng lực nhân dân đến đâu thì chúng ta xây dựng sự phát triển đến đấy. Không có sự thất bại, sự lép vế nào không đẻ ra sự nhận thức về tính giới hạn. Chúng ta cần có thái độ bình thản để hội nhập và không hội nhập vì các chỉ tiêu. Chúng ta tham gia tiến trình toàn cầu hóa với tâm lý phải thắng thì chúng ta sẽ thua, nhưng nếu chúng ta hội nhập với thế giới để chúng ta sống thì chúng ta sẽ sống. Kinh tế sinh ra để phục vụ sự sống của con người chứ không phải phục vụ sự thăng tiến, sự hãnh diện của các nhà chính trị. Chúng ta đổi mới, chúng ta mở cửa, chúng ta sống vì chúng ta chứ không vì bất kỳ ai và bất kỳ cái gì khác. Chúng ta phải nhận thức lại chính chúng ta, trước hết phải định nghĩa lại Việt Nam. Việt Nam không phải là một nước lớn, Việt Nam chỉ là một nước trung bình xét theo cả quan điểm kinh tế, dân số, năng lực sáng tạo lẫn năng lực cạnh tranh. Một quốc gia bình thường thì phải sống theo quy luật bình thường, tức là theo quy luật của những nước nhỏ. Phải nhận thức được điều này. Cũng có những nước rất bé như Bỉ, như Hà Lan... vẫn là những cường quốc kinh tế, nhưng giai đoạn mà người ta có thể trở thành một người khổng lồ trên một hòn đất sét con con do sự sáng tạo của ý chí thực dân đã qua rồi. Hiện Việt Nam đang ở giai đoạn thông thường, hòa bình của nhân loại. Việc nhận thức đúng mình và vị trí của mình trong cộng đồng quốc tế giúp chúng ta xác lập thái độ khi hội nhập. Nếu chúng ta hội nhập để thắng thì vô vọng. Việt Nam phải mất hàng trăm năm nữa để có thể nhận thức được làm thế nào để thắng. Chúng ta hội nhập, đổi mới để sống. Chúng ta phải quay trở lại đời sống thông thường của con người và xác lập thái độ bình thường khi hội nhập, mục tiêu của chúng ta chỉ giản dị như vậy. Mục tiêu của mọi sự phát triển là đời sống nhân dân, chứ không phải là sự hãnh diện của các nhà chính trị. Không tiêu hao năng lượng có ích của mình cho những mục tiêu vô ích, đó là sự sáng suốt của con người hay là sự sáng suốt của một quốc gia. Chúng ta phải đi bằng đôi chân của mình chứ không phải bay bằng trí tưởng tượng của người khác. Không phải đi tắt đón đầu để theo đuổi những mục tiêu không tưởng kiểu như muốn có ngay được nền kinh tế tri thức tại một nước còn quá lạc hậu như Việt Nam. Không có cách gì để đi tắt đón đầu cả, đó chỉ là sự tự huyễn hoặc mình và lừa bịp người. Nếu chúng ta mưu cầu hạnh phúc của nhân dân thì chúng ta không phải đi tắt đón đầu, không cần phải tìm những biện pháp cơ hội chủ nghĩa mà phải rèn luyện nhân dân chúng ta có những năng lực để cạnh tranh không lép vế, để sáng tạo ra những giá trị gia tăng ở mức độ phục vụ được sự tăng trưởng đời sống kinh tế, đời sống tinh thần hay là hạnh phúc. Nếu chúng ta hội nhập với một thái độ tỉnh táo như vậy thì người Việt Nam có cơ may trở thành một dân tộc hạnh phúc. Tạo ra một cuộc sống tương đối đầy đủ là để có một không gian vật chất đủ rộng để nhân cách, tính cách và năng lực của con người phát triển một cách tự nhiên. Bởi vì, cường điệu xu hướng vật chất lên thì con người sẽ méo mó và không thể đứng vững trước những thách thức và rủi ro có thật của đời sống.

Khu vực kinh tế tư nhân cần cách nhìn mới về con người

Trong quá khứ với cách nhìn có thể nói là khá thô sơ về con người, người ta đã khoét sâu vào sự phân chia giai cấp. Con người được chia thành những lực lượng đối kháng nhau trong đời sống, thậm chí cả trong sản xuất và lực lượng này phải đánh đổ lực lượng kia để tồn tại. Nhiều nhà lý luận coi người lao động là một lực lượng chứ không phải là đối tượng cá nhân cụ thể, nhưng chúng ta có một cái nhìn khác. Hôm nay một người có thể là người lao động nhưng ngày mai họ có thể là ông chủ, ngày kia lại có thể lại trở thành người lao động nếu họ bị phá sản. Đấy chỉ là những trạng thái khác nhau của một con người. ở mỗi con người, dù là nhà văn, nhà báo, nhà kinh tế hay nhà chính trị, thực ra, đó là những giai đoạn hay trạng thái khác nhau của một con người. Tuyệt đối hóa số phận của một con người (là người lao động hay một ông chủ vĩnh viễn) không phải là hành động nhân văn. Chúng ta không nên xem người lao động là một trạng thái vĩnh viễn. Người lao động là một trạng thái của con người, giai đoạn làm thuê luôn là trạng thái của con người, con người cụ thể đó có quyền và nghĩa vụ phấn đấu để trở thành ông chủ, thành nhà kinh doanh và thậm chí cả nhà chính trị.

Trong quá khứ, những nhà chính trị luôn luôn cần có lực lượng làm chỗ dựa cho mình để đi đến thắng lợi này hoặc thắng lợi kia và lực lượng dễ huy động nhất là lực lượng lao động. Người lao động hay đơn giản là những người nghèo khổ luôn luôn là lực lượng chính trị của các nhà chính trị. Nhà chính trị theo chủ nghĩa nào thì họ cũng đều dựa vào lực lượng này, nhưng tuyệt đối hóa người lao động để vĩnh viễn biến họ thành lao động như một số phận thì đấy là hành vi thiếu nhân hậu. Con người không ai chịu vĩnh viễn làm thuê và cũng không ai có quyền vĩnh viễn làm chủ. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng thay đổi nhanh chóng bao nhiêu thì chu kỳ lao động làm thuê cũng như chu kỳ làm chủ càng ngắn bấy nhiêu đối với từng cá nhân. Bảo vệ trạng thái người lao động của con người là một công việc tốt cần phải làm, bởi làm như vậy để họ có điều kiện thay đổi thân phận của họ trong quá trình lao động. Vấn đề không phải là có không gian tự do cho nền kinh tế tư nhân mà là không gian tự do cho các cá nhân, bởi vì không gian tự do cho các cá nhân còn làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân trong đó có cả những người mà các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội Xô Viết gọi là người lao động.

Bản chất của khoa học kinh tế là khoa học về các lợi ích. Khoa học kinh tế là triết học của kinh doanh. Làm gia tăng các giá trị cụ thể chính là bản năng của nhà kinh doanh, đấy là phẩm chất không thể thiếu của nhà kinh doanh. Nhà kinh doanh là những người ý thức về sự gia tăng các giá trị thông qua hành vi của mình. Bất kỳ nhà kinh doanh nào không ý thức về sự gia tăng các giá trị thông qua các hành vi của mình thì nhà kinh doanh đó khó có thể tồn tại. Gia tăng các giá trị có nghĩa là biến các nguyên liệu thành sản phẩm bán được có giá hơn, biến những người lao động đơn giản trở thành những người sản xuất ra những hàng hóa có thu nhập lớn hơn để tạo ra mức sống cao hơn, biến đồng tiền của mình có lợi nhuận cao hơn. Tóm lại, trong mỗi nhà kinh doanh phải có phẩm chất nhận thức chính xác và đầy đủ, ý thức một cách trọn vẹn về cái gọi là giá trị gia tăng. Nhà kinh doanh có giá trị xã hội thì ý thức về giá trị gia tăng của hành vi của mình đối với xã hội, nhưng sự gia tăng các giá trị xã hội của nhà kinh doanh nằm ngoài ý thức của nhà kinh doanh. Nếu nhà kinh doanh chỉ ý thức về việc làm ra giá trị gia tăng cho xã hội thì hoặc là họ đã đạt tới đỉnh cao của sự kinh doanh hoặc là họ không bao giờ kinh doanh được.

Nhà nước và quyền tạo ra giá trị gia tăng

Bản chất, mục tiêu của kinh doanh là gia tăng các giá trị. Không ý thức đầy đủ, tỉnh táo, bình tĩnh về tiến trình gia tăng các giá trị trong hành vi của mình thì không phải là nhà kinh doanh. Một nhà kinh doanh lành mạnh là ghép sự gia tăng các giá trị của mình vào toàn bộ sự gia tăng các giá trị xã hội, còn những nhà kinh doanh thông thường, quy mô thấp thì họ chỉ nhận thức được sự gia tăng các giá trị của những hoạt động kinh doanh của riêng họ. Nhưng đấy là mục tiêu của kinh doanh. Mọi thứ sáng tạo khác để phục vụ một mục tiêu như vậy. Mọi không gian xã hội, chính trị, văn hóa mà nhà nước hoặc chính phủ muốn tạo ra cũng là để phục vụ cho việc một con người có quyền, có không gian và những điều kiện tương đối đầy đủ để tạo ra sự gia tăng giá trị thông qua các hành vi kinh doanh của mình.

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân nói riêng cũng như phát triển kinh tế nói chung là tạo ra các không gian chính trị, pháp luật, chính sách... để tạo cho con người có quyền tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, phải nhận thức được thế nào là giá trị gia tăng như đã phân tích là việc rất khó, bởi người xuất khẩu gạo thì ý thức được sự gia tăng khi xuất khẩu nhưng họ không ý thức được giá trị gia giảm của quá trình nhập xuất. Chính phủ sinh ra là để nhận thức được trọn vẹn toàn bộ sự gia tăng giá trị của một nền kinh tế, còn doanh nhân thì ý thức được giá trị gia tăng của kinh doanh. Sự gia tăng các giá trị của một nền kinh tế với hiện tượng gia tăng các giá trị kinh doanh là khác nhau, do đó chức năng của chính phủ và chức năng của các doanh nhân là khác nhau. Chẳng hạn xúc tiến thương mại khác với Marketing. Marketing là hoạt động để bán được sản phẩm, còn xúc tiến thương mại là việc bán một nền kinh tế. Bán được một nền kinh tế là chức năng của chính phủ, còn bán được sản phẩm là chức năng công ty của công ty. ý thức được giá trị gia tăng của nền kinh tế là công việc của chính phủ, của hệ thống chính trị, còn gia tăng giá trị kinh doanh là công việc của các công ty hay các doanh nhân.

Ngày nay kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Sự giàu có và thịnh vượng của mỗi quốc gia tùy thuộc rất nhiều vào thái độ của toàn xã hội, đặc biệt là của đảng cầm quyền, đối với khu vực kinh tế trọng yếu này. Đường lối phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện tư duy chiến lược và có vai trò quan trọng đối với thành công hay thất bại của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân đang hình thành những dạng thức đa dạng và phong phú đặc trưng cho mỗi giai đoạn phát triển của đời sống xã hội. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng, phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển.