Bấy giờ vào khoảng 9 giờ tối. Dùng cơm tối xong, tôi đương ngồi trong tư thất Bộ Lại, nói chuyện với con trai thứ tôi là Phạm Bích. Bấy giờ nghe tiếng súng nổ lung tung. Ra sân thì trông thấy đèn chiếu lấp loáng ở bên kia sông, và tiếng nổ là tiếng súng liên thanh như tiếng pháo, khi ở phía trên khi ở phía dưới.
Đương phân vân chưa hiểu chuyện gì thì chợt thấy quan Đề đốc Hộ thành Phan Gia Chung chạy vào Bộ. Ông nói “Có biến to. Nghe đâu lính khố đỏ phản lại Tây, đương đánh nhau dữ. Xin cho đóng các cửa thành.” Tôi cũng hối ông truyền cho lính đóng chặt các cửa thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Khi bấy giờ đứng ở thềm bộ Lại, ông Đề với tôi cùng sực nhớ Hoàng Đế và Hoàng Hậu ngự ra Quảng Trị đã mấy bữa nay, có lẽ chiều nay hay sáng mai về, nhưng chưa biết hiện giờ đã hồi loan chưa. Vì những khi các Ngài ngự vi-hành như thế này, thì chỉ lính canh trong Đại-nội và viên Võ-hộ-giá tây mới biết rõ giờ đi giờ về mà thôi. Tôi nói với ông Đề: “Thôi, quan lớn cứ đốc xuất việc cấm phòng trong thành cho cẩn mật. Để tôi vô Nội, nếu Ngài đã hồi loan thì tôi chầu Ngài, nếu chưa thì tôi sẽ tìm quan ba Bon để hỏi.” Ông Đề cũng nói: “Phải đấy, cụ nên vô Nội để chầu các Ngài là phải”. Bấy giờ, trời tối đen và hơi mưa phùn, ông liền nói: “Đã sẵn cái xe tay kéo tôi đây, cụ lên xe và đi cho mau.”
Tôi khoác cái “măng tô”, rồi lên xe đi, con trai tôi và một tên lính đạp xe đạp theo sau. Đến cửa Hòa Bình, tôi gõ cửa hỏi Ngài đã hồi loan chưa, thì cửa đóng kín mít, không tiếng trả lời: có lẽ lính canh đứng vào trong xa không nghe thấy, có lẽ nghe thấy mà đương lúc lộn xộn không biết ai không dám thưa.
Tôi liền bảo xe kéo vào nhà quan ba Võ-hộ-giá, ở tận bãi trong xa. Bấy giờ đêm lại càng tối, không trông thấy gì cả. Vào đến gần nhà quan ba cũng thấy tối mịt, không thấy đèn lửa gì. Đứng trong vườn rộng, con tôi và tên lính phải hết sức lên tiếng gọi bồi, hỏi quan ba có nhà không đến mười phút không thấy tiếng người, đã toan quay xe ra, mới thấy trong nhà bật đèn.
Chúng tôi đi vào, bồi ra mở cửa, hỏi thì nói quan ba còn đương ngủ, để vào đánh thức. Đợi năm phút mới thấy ông Bon chạy ra, như còn mơ ngủ, chưa hiểu chuyện gì. Hỏi có nghe tiếng súng không, thì ông nói: “Có lẽ lại báo động giả, chứ gì!” Sau nghe kỹ, ông mới hiểu là có chuyện biến. Tôi hỏi: “Ông có biết bao giờ Ngài ngự về? Hiện đã dời Quảng Trị chưa? Hồi loan đêm hôm nay, hay ngày mai?” Thế ra ông mơ hồ không biết chi cả. Tôi giục ông phải gấp làm thế nào thông tin tới Quảng Trị cho biết Ngài ngự ở đâu. Bấy giờ xem ra ông cũng hơi hoảng, bàn với tôi nên vô Nội để sẽ liệu.
Rồi mấy người cùng đi ra, đêm càng khuya càng tối và tiếng súng vẫn lác đác bốn phương. Ông Bon thuộc đường đi trước, chúng tôi đi theo sau. Ra khỏi vườn được một ít thì nghe trong đêm tối có tiếng người và tiếng gươm súng đụng chạm. Rồi có tiếng hỏi: “Có phải quan ba Bon đó không?” Thì ra có toán hiến binh Nhật Bản đương đi vào nhà ông Bon để tìm bắt. Rồi họ thấy chúng tôi đi lên, họ cũng giữ lấy. Bấy giờ có người thông ngôn Việt Nam đi theo, nói tiếng ta với tôi rằng: “Hiện quân Nhật đương giải võ quân Pháp, vì có việc lôi thôi giữa quân quan Nhật và Toàn quyền Decoux. Nhưng không việc gì đến người Việt Nam ta. Chỉ sáng mai là xong chuyện cả.”
Rồi nghe tiếng người hỏi: “Nhà ông Vĩnh Cẩn ở đâu?” Nhà ông Vĩnh Cẩn cũng ở gần ngay đấy. Rồi cả đoàn kéo vào. Quân Nhật xô cửa vào, mấy người trèo lên lầu, mấy người đứng bên dưới. Tôi ngồi với ông Bon ở nhà dưới. Được một lát thì có người hạ sĩ quan Nhật đưa cho tôi xem một mảnh giấy vừa chữ ta vừa chữ tây, đại khái cũng nói như lời người thông ngôn nói khi hồi, rồi mời tôi lên lầu, giao ông Bon cho lính canh ở dưới. Lên lầu thấy ông bà Vĩnh Cẩn ngồi cả đấy. Một lát nữa thì thấy ông Đề đốc Hộ thành cũng đến. Có viên quan Nhật Bản chung ngồi nói chuyện. Tôi thấy mệt vào nằm nghỉ ở một gian phòng cạnh đấy, vừa chợp mắt thì thấy tiếng người: Nhìn ra thì là quan phó lãnh sự Ishida, tôi đã quen biết, đi với một vị võ quan nữa. Ông bắt tay chào tôi, mời ra ngoài nói chuyện, rồi giới thiệu cho quan Đội trưởng Hiến binh Sơn Dã đại úy. Ông nói: “Chúng tôi có vào tìm cụ, ở Bộ Lại không thấy. Có vào cả các bộ khác, để tìm các cụ, có cụ ở Bộ, cũng có cụ đi khỏi. Chúng tôi muốn nói rõ cho các cụ biết đầu đuôi việc xảy ra như thế, và xin cứ yên tâm, quân đội sẽ bảo toàn châu đáo.” Ông lại nói: “Hiện khởi sự ở toàn cõi Đông dương, ở Sài Gòn, Hà Nội cũng cùng một giờ này, và có lẽ hiện đã xong rồi.” Rồi ông hỏi tin tức về Hoàng Đế. Hai ông bàn với nhau bằng tiếng Nhật hồi lâu, rồi nói lại với tôi rằng: “Bây giờ đã khuya rồi, cụ cứ nghỉ lại đây, đừng đi về Bộ vội, vì còn có tiếng súng bắn, đi đường có nguy hiểm. Sáng sớm mai, chúng tôi sẽ lại đây, rồi cụ cùng đi với chúng tôi ra Quảng Trị để rước Ngài về.” Hai ông ra về, tôi đi nghỉ.
Sáng hôm sau chủ nhật, tôi vừa khăn áo ngồi đợi, thì hai ông vừa tới. Ông Ishida nói: “Vừa có tin, Hoàng Đế và Hoàng Hậu đã ở Quảng Trị về từ khi đêm. Nhưng xe Ngài hiện còn ở cửa An Hòa, mời cụ cùng chúng tôi ra rước Ngài về điện.”
Tôi liền lên xe ô tô của Hiến binh, cùng với quan ba Hiến binh và ông phó lãnh sự ra cửa An Hòa. Đến nơi thì thấy xe Ngự đã ở đó, chung quanh có quân quan Nhật và một khẩu đại bác đương bắn vào đồn lính Tây ở Mang Cá. Tôi liền đến trước xe, tâu qua tình hình, rồi rước Ngài về Điện. Ngài ban rằng xe tới từ khuya mà đứng đợi đấy mãi đến giờ. Rồi ban cho lên xe, cùng chầu vô Nội. Đi trước là xe của Hiến binh, ở trong vẫn có quan ba Hiến binh và quan phó lãnh sự. Đến trước cửa Hòa Bình, thì xe Hiến binh đứng ra một bên, để xe ngự vào. Tôi xuống gọi cửa. lính canh nghe rõ tiếng tôi và tiếng xe ngự, liền mở cửa. Xe Hiến binh xin phép đi theo sau. Đến trước thềm lầu Kiến Trung, Hoàng Đế và Hoàng Hậu xuống xe. Bấy giờ hai vị quan Nhật mới ra trình diện, cúi đầu chào, do tôi giới thiệu, và xin phép chầu ngài mấy phút để tâu mấy lời. Hoàng Hậu lên lầu nghỉ, Hoàng Đế liền ngự vào phòng khách, rồi ban tôi mời hai vị cùng vào. Hoàng Đế ngự ghế giữa quan ba Sơn Dã, đứng bên, rất kính cẩn nói mấy câu bằng tiếng Nhật, rồi trao một tờ giấy cho ông Ishida. Ông này dịch lại lời quan ba ra tiếng Pháp có câu xin lỗi Hoàng Đế, đêm khuya Ngài ngự về dọc đường quân quan không biết, có điều gì sơ suất xin Ngài ban xá. Rồi đọc tờ giấy bằng chữ Pháp, là lời của quan Tổng tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương, hiện ở Sài Gòn, thỉnh cầu Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam hiệp sức với quân đội Nhật, và xin Ngài cứ ngự tại Đại Nội, không quan ngại gì, Hoàng quân sẽ bảo toàn châu đáo.
Ngài ban cảm ơn, và giao cho tôi giao thiệp với quí quan mọi việc rồi hai ông lui ra, tôi cũng tâu xin ra để Ngài nghỉ, sẽ vô chầu sau.
Hai ông cùng đi ra Bộ Lại với tôi, nói chuyện chừng mười lăm phút. Khi ấy vào khoảng mười giờ hơn. Đương lúc nói chuyện thì viên hạ sĩ quan vào trình việc gì. Hai ông nói lại với tôi là ở Huế việc đã gần xong, chỉ còn đồn Mang Cá chống lại chưa hàng mà thôi. Hai ông khuyên tôi cứ ở Bộ, đừng ra ngoài vội, vì đương khi đánh nhau, đạn lạc tên bay, có nguy hiểm. Tôi nói tôi cần phải vô Nội chầu Ngài, sợ lính Nhật canh các đầu đường trong thành có cản trở chăng. Quan ba Sơn Dã liền viết cho tôi một tờ giấy thông hành để đi lại trong thành cho tiện. Trước khi ra về, ông Ishida có tin cho tôi biết rằng hiện có quan đặc sứ Yokoyama ở Huế, ngài sẽ đến thăm tôi, nhưng không nói giờ nào. Tôi nói quan sứ Yokoyama thì tôi đã biết, đã có dịp tiếp chuyện ngài năm trước, và sẽ hân hạnh được thừa tiếp lần nữa.
Bấy giờ tiếng súng đại bác và liên thanh vẫn không ngớt, bắn vào Mang Cá.
Chừng bốn giờ chiều thì có tin trong Nội Hoàng Đé ban triệu tôi. Tôi liền khăn áo vô chầu. Bấy giờ Hoàng Đế, Từ Cung và Hoàng Hậu đương đứng ở sân lầu Kiến Trung. Tôi chầu chuyện ba ngài giờ lâu, rồi Hoàng Đế ban cho tôi tối phải vào ngủ trong Nội, để túc trực phòng việc cần. Bấy giờ tiếng súng đã ngớt. Chợt nghe tiếng xe ở cửa Hòa Bình, rồi thấy tên lính canh chạy vào bẩm với tôi có hai xe ô tô quan Nhật xin vô Nội. Hoàng Đế ban tôi ra tiếp, rồi Ngài ngự lên lầu.
Tôi truyền cho lính ra mở cửa để xe các quan vào. Tôi chực ở trước cửa Ngự Tiền văn phòng. Hai xe tới nơi, thời ở xe trước xuống, thấy quan đặc sứ Yokoyama, võ quan lãnh sự Ishida tôi đã biết, đi cùng với quan lãnh sự Watamata, bấy giờ mới giới thiệu. Xe sau là võ quan và quân lính hộ vệ tùy tùng. Tôi mời các quan lên buồng giấy nói chuyện. Sau mấy câu hàn huyên, quan đặc sứ tỏ ý muốn chầu Hoàng Đế để tâu việc cần. Tôi liền qua lầu Kiến Trung để tâu lại, Ngài ban mời các quan vào phòng khách tiếp chuyện.
Hoàng Đế ngồi giữa, đặc sứ Yokoyama ngồi tay phải, còn hai bên thì hai quan lãnh sự Watamata và Ishida với tôi.
Buổi tiếp kiến này là một giai đoạn rất quan hệ trong lịch sử nước ta, vì là buổi đề cập tới vấn đề độc lập nước Việt Nam, sau này sẽ có dịp tự thuật tường, để cống hiến một tài liệu cho lịch sử, không tiện biên chép lại- thảo ngay bây giờ.
Sau cuộc tiếp kiến ấy, liền có cuộc hội đồng đặc biệt Viện Cơ Mật trong phòng nhỏ Hoàng Đế tại lầu Kiến Trung vào bảy giờ tối.
Rồi mười giờ đêm hôm ấy, các cụ Cơ Mật lại họp ở Bộ Lại để tiếp quan đặc sứ và thảo tờ Tuyên bố Độc lập.
Hai cuộc hội đồng đó cũng như cuộc hội kiến trên, đều là những việc quan trọng, thuộc về lịch sử, tôi được may mắn dự vào, đóng một vai chính, sau này sẽ có dịp thuật tường.
22/01/2020Phạm QuỳnhNhững dịp để cả một dân tộc được sống cùng nhau trong một tình cảm, một ý tưởng chung, cùng một xúc động tập thể, bao giờ cũng hiếm. Thường đấy phải là những sự kiện quan trọng, có liên quan ngay đến đời sống của cả cộng đồng, mới có thể tạo nên sự đồng nhất như vậy về ý nghĩ và rung cảm của mọi người.
04/08/2019Phạm QuỳnhLịch sử không chỉ có tác dụng giáo dục; nó còn khích lệ. Nó làm nguôi ngoai, đem lại sự bình tâm; nó xoa dịu những nôn nóng cũng như những âu lo và cung cấp chỗ dựa cho niềm tin và hy vọng. Giữa những ưu tư nặng nề trước các khó khăn hiện tại, nó đưa lại sự tĩnh tâm thư thái khi thanh thản chiêm ngưỡng quá khứ vì dường như ta được tham dự vào sự bất tận của thời gian và vĩnh hằng của muôn vật. Nó là một phương thuốc tuyệt vời chống lại sự nản lòng và bi quan.
26/07/2019Phạm QuỳnhHọ có trong tay một sức mạnh lớn: đấy là tinh thần dân tộc phẫn nộ từng ngày trước các xí nghiệp ngoại quốc và dựa trên nền tảng tinh thần bài ngoại của nòi giống. Có thể, đến một ngày nào đó, tinh thần ấy, được thanh lọc, được chưng cất lên, sẽ giúp người Trung Hoa thoát ra khỏi tình trạng hỗn loạn của họ.
01/07/2019Phạm QuỳnhBàn về quốc học không thể không nói đến quốc văn. Quốc học với quốc văn vẫn có quan hệ với nhau rất mật thiết. Nước ta sở dĩ không có một nền quốc học chân chính, phần nhiều là bởi không có một nền quốc văn xứng đáng.
02/04/2018Phạm QuỳnhCũng có trí thông minh, cũng có tài hoạt-bát, cũng biết đường hơn thiệt, cũng biết điều phải chăng, nhưng phải cái tính tự phụ hiếu thắng, nói khoác nói lác, nói quàng nói xiên, thành ra con người trắng trợn, rất khả ố.
25/03/2018Vương Trí NhànKhi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hoá, trở thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và sâu sắc với dân tộc, với đất nước. Ấy là niềm tin đến với chúng tôi khi lần giở lại Nam Phong. Nó cũng là nhân tố giúp chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh...
24/08/2017Phạm QuỳnhQuần chúng phải buộc bằng những sợi chỉ vô hình của đạo đức, luân lý, phong tục, tập quán, sợi chỉ mong manh nhưng cũng là sợi chỉ thiêng liêng, nhờ đó mà loài người mới thành xã hội có kỷ cương, nếu không thời chỉ là những đám đông ô hợp, hỗn hào, loạn tạp.
19/07/2017Nguyễn Đình ChúNguyễn Văn Vĩnh chủ bút Đông Dương tạp chí – Phạm Quỳnh chủ bút Nam Phong tạp chí. Cuộc đời hai Cụ mỗi người một vẻ, nhưng số phận lại có chỗ na ná nhau, với người đời, kẻ đặt lên cao, người hạ xuống thấp. Có điều là thời gian xem ra đang ủng hộ hai Cụ. Chẳng biết, sinh thời, hai cụ gắn bó với nhau tới đâu, nhưng cứ vào bài thơ Cụ Quỳnh khóc Cụ Vĩnh năm 1936 thì tình bạn của hai cụ chắc là thắm thiết lắm.
13/07/2017Phạm QuỳnhKhông thể chối cãi được rằng đất nước này đang trải qua một cuộc khủng hoảng, có thể là khủng hoảng tăng trưởng, cách gì thì cũng là một khủng hoảng khá sâu sắc, và nhiều người không nghi ngờ gì mức độ nghiêm trọng của nó.
07/10/2016Phạm QuỳnhẤy triết lý của tiểu thuyết như thế mà ảnh hưởng của tiểu thuyết lại như thế. ảnh hưởng ấy thật là sâu xa vô cùng. Song trong ảnh hưởng ấy có sự hay mà cũng có sự không hay.
17/06/2016Phạm QuỳnhBan Văn học Hội Khai Trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỉ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp một người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái "hương hỏa" rất quý báu, đời đời vẻ vang cho cả giống nòi.
05/06/2016Phạm QuỳnhMột hôm tôi nhận được những lời tâm sự của một người bạn trẻ. Quả rất bi thảm. Chúng bộc lộ sự rối loạn của một tâm hồn hoàn toàn hoang mang không còn tìm thấy các chuẩn mực cho cuộc sống của mình và buông mình như một cái xác mặc cho dòng nước cuốn trôi. Chúng rất tiêu biểu cho trạng thái bất ổn của phần đông giới trí thức tinh hoa của đất nước này.
10/03/2016Phạm QuỳnhTừ xưa thế giới là của riêng của đàn ông, từ nay thế giới là của chung cả đàn bà. Đàn bà tuy không làm những sự nghiệp lớn lao, biến cải mặt địa cầu, nhưng ảnh hưởng trong gia đình, trong xã hội, đằm thắm mà sâu xa biết dường nào!
26/01/2016Phạm QuỳnhTrong một bài viết trước tôi có ám chỉ đến sự cần thiết phải tiến hành một cuộc "cải cách trí tuệ và luân lý" ở xứ này, và tôi đã nói rằng cuộc cải cách đó chủ yếu phải là công việc của giới tinh hoa nước Nam, những người phải có ý thức về chính mình, về bổn phận và trách nhiệm của mình.
26/01/2016Phạm QuỳnhTừ ngày Đông phương và Tây phương giao tiếp nhau thân mật đến cảm hóa lẫn nhau về đường tinh thần, đường tri thức, những bậc đại trí trong thiên hạ để ý nghiên cứu về vấn đề ấy cũng đã nhiều. Nhưng vì cái phạm vi nó to rộng quá, nên chửa ai xem được khắp và xét đến cùng. Đem Đông phương và Tây phương đối nhau, tựa hồ như hai cái khối hồn nhiên đem ra so sánh...
07/11/2015Phạm Quỳnh (sinh (17/12/1892 - mất 6/9/1945)Chúng ta sống trong một thời kỳ khủng hoảng của lịch sử thế giới. Đấy không phải là một lời sáo rỗng tầm thường, một công thức mơ hồ và có phần cường điệu. Đấy là một nhận xét cần thiết nếu ta nghĩ đến những hậu quả kinh khủng của bi kịch do cuộc va chạm giữa Phương Đông và Phương Tây gây ra trên thế giới...
08/11/2014Henri Bergson - Phạm Quỳnh dịchCái tính hiếu triết học đó thực là tiêu biểu cho tính tình cao thượng của người Pháp, chỉ ưa những nghĩa lý công minh chính đại ở đời. Như vậy thì hồn nước Pháp với hồn triết học tất có thanh khí với nhau, không phải không.
18/12/2009Phạm QuỳnhỞ Kinh mà không đi cung chiêm các Tôn lăng thì cũng là uổng mất cái công tự Hà Nội về đây. Vả mục đích tôi về Kinh là muốn xem những cảnh tượng cũ của nước nhà. Còn cảnh tượng gì trang nghiêm hùng tráng bằng những nơi lăng tẩm của mấy vị đế vương ta đời trước?
15/12/2009Phạm QuỳnhTên đại bợm giết người lấy của, chĩa súng sáu vào người ta, nói: “Muốn sống thì đưa tiền đây!”; một trăm người đến chín-mươi-chín-người đành mất tiền cho khỏi chết. “Sinh-mệnh” với “hà-bao”, dầu người ta không ai là không thiết tha cái hà-bao đựng tiền, nhưng ai ai cũng còn trọng cái sinh-mệnh ở đời hơn
05/12/2009Phạm QuỳnhCòn như vô duyên cũng có năm bảy đường: có kẻ bất tài mà vô duyên, tưởng lẽ tự nhiên là thế, nhưng nghĩ kỹ vô duyên không phải ở bất tài, không tất nhiên bởi bất tài; bất tài mà yên phận thời dẫu không có duyên cũng không đến nỗi nào;
01/12/2009Phạm QuỳnhVậy thời cái con người hiểm độc ấy nó thế nào? Có thể tả được bức tranh tâm lý về con người ấy, bằng nét vẽ phác họa, đủ cai quát (Bao quát toàn bộ – PT chú) mà hình dung được một nhân vật chung trong xã hội, không mang tiếng là ám chỉ một cá nhân đặc biệt nào, có thể vẽ được bức tranh phá bút như thế không?
28/11/2009Phạm QuỳnhXét đời người phải xét đến sự sống, vì đời người là cái khoảng người ta sống trên mặt đất. Nhưng người ta cũng là một giống trong muôn vàn giống sinh vật khác; xét sự sống của người ta là xét sự sống của hết thảy các sinh vật trên mặt đất.
25/11/2009Phạm Quỳnh"Không biết rằng ngược xuôi bôn tẩu như vậy có ăn thua gì, chính là phải định tĩnh tinh thần, kết ngưng trí tuệ mới được. Ở người nào, ở vật nào là không có thơ? Nhưng cái hồn thơ ấy nó thâm trầm u ẩn, không phải bộc lộ ra ngoài, phải có chí, phải chịu khó mới tìm ra được.
23/11/2009Phạm QuỳnhQuốc học không phải là một vật có thể giấu giếm đi được hay là cần phải tìm tòi mới ra. Nếu quả có thật thì nó sờ sờ rõ rệt ra đó, ai còn chối được, mà phải đến người nọ nói có, người kia nói không!
11/11/2009Phạm QuỳnhCác dân tộc, các quốc gia, các hạng người trong xã hội, cho chí từng người với nhau, nhất thiết chỉ vì muốn sống, mà phải tranh giành nhau rất kịch liệt
10/11/2009Phạm QuỳnhÔng không nói hết câu, nhưng nghe cũng hiểu ý ông rằng: “Văn chương "chữ ta" hay lắm, nhưng mà những phường học chữ Tây như các bác không thể hiểu được, và chữ Tây của các bác dẫu có văn chương cũng chẳng đời nào bằng”.
06/11/2009Phạm QuỳnhNghiệp báo, luân hồi, yếm thế, khổ hạnh - đó là mấy cái mầm lớn của đạo Phật manh nha ra từ đó; sau này rồi mỗi ngày một lớn lên, nhưng gốc cũng ở trong đạo Phệ-đà cả.
04/11/2009Phạm QuỳnhMột nhà làm sách Nhật Bản có nói rằng: “Hai cái nguồn lớn của văn hóa Đông Á ta là Khổng giáo và Phật giáo. Ngày nay dẫu ta theo đòi văn minh học thuật Thái Tây, ta cũng chớ nên quên nguồn gốc cũ”.
02/11/2009Phạm QuỳnhNgày ấy gần xa thế nào, bây giờ chưa thể biết được. Nhưng nhờ sự học vấn mỗi ngày một rộng một thâm, người Đông phương với người Tây phương mỗi ngày một am hiểu nhau hơn, chắc cũng có lợi cho sự tiến hóa chung được nhiều vậy.
27/10/2009Phạm QuỳnhQuốc văn là phần chính, chữ Hán là phần thuộc; quốc văn là cứu cánh, chữ Hán là phương tiện, nhưng là cái phương tiện rất cần, không có không được
21/10/2009Phạm QuỳnhVăn minh là đối với dã man. Chữ “văn minh” là một chữ mới. Tuy trong kinh Dịch đã có câu, nhưng dùng theo nghĩa mới để dịch chữ Tây civilisation thời mới bắt đầu tự người Nhật Bản. Người Nhật dùng trước (đọc là bunmei), người Tàu theo sau, rồi người ta bắt chước, ngày nay thành một chữ rất thông dụng.
16/09/2009Phạm QuỳnhHai phạm vi văn học và chính trị, tuy có thể đắp đổi cho nhau, nhưng thực là cách biệt nhau hẳn. Có thể đắp đổi cho nhau là nhà chính trị mà có văn học thời được sắc sảo thêm ra, như trên đã nói, và nhà văn học mà làm chính trị thời cũng có lẽ được giàu thêm sự kinh nghiệm ra, tăng thêm được tài liệu cho sự nghiệp văn chương của mình. Nhưng mà vốn là hai phạm vi cách biệt nhau, vì khuynh hướng về hai mục đích khác nhau.
21/08/2009Phạm QuỳnhBài toán về những mối quan hệ tinh thần giữa Phương Tây và Phương Đông đặt ra vấn đề các con đường và các cách thức những mối quan hệ đó cần phải được thể hiện như thế nào để thật sự là có ích. Bởi ai cũng hiểu rằng hai bộ phận đó của thế giới không thể cứ đối lập với nhau mãi, chúng không thể cứ sống mà không hề biết đến nhau, và chúng cần phải tìm được một mảnh đất để có thể thâm nhập vào nhau và thấu hiểu nhau.
11/08/2009Phạm QuỳnhDường như lúc này đây là giai đoạn khó khăn nhất trên con đường dài kể từ sau ngày từ giã cõi trần của vị hiền triết già Châu Á. Trong suốt gần hai nghìn năm trăm năm ông ngự trị trên tâm trí và lương tri của bộ phận đông đúc và dày đặc nhất của nhân loại - tôi có hơi phân vân khi nói là trên trái tim họ, chưa bao giờ ông bị đem ra tranh cãi, phê phán ác liệt như những ngày này, ngay cả so với thời Trang Tử và các học giả của trường phái Lão giáo chĩa vào ông những mũi tên gay gắt nhất.
08/08/2009Cái văn bản Phạm Quỳnh mấy chục năm qua đã thoát hình hài trần thế để được thoả sức yêu cái đẹp thiên giới, nơi đó không còn triết học và thực dụng, không còn lo âu và toan tính, không còn ảo tượng và vỡ mộng. Văn bản đó sẽ để lại trong lòng người những tác phẩm như thế nào đây? Điều đó hoàn toàn là của riêng bạn đọc. Mấy lời giới thiệu phiến diện này cũng chỉ là một trong vô vàn tác phẩm mà thôi.
29/07/2009Phạm QuỳnhVăn quốc ngữ do Hán văn mà ra, không thể dời khuôn phép của Hán văn mà thành lập được; nhưng hiện nay chữ Hán không mấy người biết nữa, làm thế nào cho quốc văn thành được? Có thể bỏ hết chữ Hán mà chỉ dùng tiếng Nôm được không?
28/07/2009Hoàng TiếnNền văn hóa phương Tây, ta chỉ mới làm quen độ hơn trăm năm nay. Những người có công bắc chiếc cầu nối để ta hiểu phần nào nền văn hóa phương Tây, cũng như để người phương Tây phần nào hiểu nền văn hóa Việt Nam, là lớp trí thức hồi đầu thế kỷ, mà ông Nguyễn Văn Vĩnh là người đáng được ghi công đầu.
15/07/2009Đỗ Lai ThúyNam Phong (1917-1934) là một trong những tạp chí có công rất lớn trong việc cổ động cho văn học quốc ngữ, cho nền quốc học Việt Nam. Đặc biệt cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam trên cơ sở kết hợp, dung hòa hai nền văn chương, học thuật, tư tưởng Đông – Tây. Các biên tập viên giữ các chuyên mục của tạp chí đều là những cây bút vững vàng, sắc sảo, nhạy bén với những vấn đề văn hóa, trong đó phải kể đến ông chủ bút là Phạm Quỳnh.
13/07/2009Phạm QuỳnhNgười nước Nam có thể và cần phải làm chính trị, nhưng đó là chính trị theo nghĩa thứ nhất đã đem ra phân tích: cái chính trị của lợi ích chung đòi hỏi một sự toàn tâm toàn ý cho việc công. Ngược lại, người nước Nam phải tránh cái chính trị có xu hướng mị dân, nó ve vãn nhân dân để lừa dối nhân dân, và bất chấp thực tế, khiến nhân dân lao vào các ảo tưởng nguy hiểm và không thể thực hiện được.
07/07/2009Phạm QuỳnhTrong khi ta tư tưởng một sự gì, trí tuệ ta phải nghiền ngẫm cứu xét về sự ấy. Trí tuệ ta không phải là thường siêng năng sáng suốt, lại hay trễ nải biếng nhác và bị che lấp mờ ám. Vậy lắm khi chưa cứu xét tư tưởng ấy đến nơi đến chốn đã trình bày cho ta phán đoán. Nếu ta cũng lười biếng cẩu thả, nếu lòng ta lại thiên lệch nữa, thì phán đoán tất sai lầm, không khỏi được. Người đời thường lầm lẫn sai ngoa, đến điên đảo hắc bạch, lắm khi bởi ý chí nhu nhược, hơn là bởi trí tuệ hôn mê...
04/07/2009Phạm QuỳnhVăn minh học thuật một nước là tiêu biểu cho tinh thần nước ấy. Tinh thần ấy phát hiện ra nhiều cách, nhưng rút lại có mấy cái đặc tính nó phân biệt nước ấy với các nước khác, khiến cho nước ấy có một cái hình dạng riêng trong vạn quốc, một cái địa vị riêng trong thế giới.
03/07/2009Phạm QuỳnhNhư muốn vẽ bức tranh thì con mắt phải nhìn trong cảnh vật mà thu lấy cái hình ảnh, rồi mới tìm cách truyền thần ra giấy ra lụa. Muốn làm bài thơ cũng vậy, trong trí phải tưởng tượng ra một cái cảnh, hoặc là cảnh thiên nhiên, hoặc là cảnh trong tâm giới, rồi dùng những âm hưởng thích đáng mà gọi, mà kêu nó lên, khiến cho người nghe cũng phảng phất tưởng tượng như thế. Hai đàng cùng là vẽ cả, một đàng là vẽ cách trực tiếp, một đàng là vẽ cách gián tiếp, nhưng đều muốn khêu gợi ra mối tư tưởng cảm tình trong tâm trí người ta vậy.
03/07/2009Phạm QuỳnhKhông thể chối cãi là hiện giờ đang có một ngôn ngữ mới của nước Nam đa dạng hơn, uyển chuyển hơn, đủ khả năng hơn cho sự diễn tả các tư tưởng mới và các quan niệm trừu tượng so với ngôn ngữ đó cách đây mười lăm, hai mươi năm.
03/07/2009Phạm QuỳnhBáo Nam Phong cũng là tiêu biểu cho một thời kì trong công cuộc cải tạo quốc văn, đề xướng quốc học. Quốc văn sau này còn tấn tới nhiều, quốc học sau này còn mở mang rộng. Nhưng cái bước đầu khó khăn cũng nên ghi nhớ lấy, để có thể so sánh trước sau hơn trước thế nào. Sau hơn trước là lẽ cố nhiên, nhưng có trước thì mới có sau thời trước đối với sau cũng không phải là tuyệt vô quan hệ.
02/07/2009Ngô Phan (thực hiện)Pháp du hành trình nhật ký (Nhật ký đi Pháp) của Phạm Quỳnh vừa được in lại sau mấy chục năm ngủ yên trong tạp chí Nam Phong suốt từ 1922 tới nay. Nhân dịp này, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn- người thực hiện việc biên soạn và chú giải – có dịp trao đổi với TT&VH về giá trị của tập sách cũng như về việc khai thác bộ phận văn học viết bằng quốc ngữ đầu thế kỷ 20.
24/06/2009Phạm QuỳnhTa thường nói cái này đẹp, cái kia xấu; đọc bài văn khen hay, nhìn bức tranh khen khéo, nghe đàn mà cảm động, xúc cảnh mà hứng hoài. Bấy nhiêu thứ đều gợi ra trong tâm tình ta một cái cảm riêng, nhà tâm lý gọi là “mỹ cảm”.
19/06/2009Phạm QuỳnhNhà báo vừa tiêu biểu mà vừa tạo thành ra dư luận trong một nước. Ai nói đến báo là nói đến dư luận, ai hỏi đến dư luận là tìm đế báo, báo với dư luận, dư luận với báo là lần lót, là hình ảnh cho nhau, là tinh thần là hình thức của nhau vậy.
16/06/2009Nguyên NgọcLà một trong những người dịch ông, tôi thấy có lẽ Phạm Quỳnh là một trong những người Việt viết tiếng Pháp hay nhất, một thứ tiếng Pháp trong sáng, sang trọng, trang nhã và đầy âm vang, chỉ có thể có được trên cơ sở một vốn tri thức uyên thâm về văn hóa và văn minh không chỉ của Pháp mà còn của cả phương Tây cổ kim.
09/06/2009Phạm Quỳnh - Dịch Hán văn của Tống Cảnh LiêmVăn là gì? Người đời nay thường hiểu văn là văn chương, mà không biết rằng tiên nho cho chữ văn một cái nghĩa rất rộng. Văn là cái vẻ thiên nhiên ở trong người, tự nó xuất hiện ra lời nói câu viết, không phải học mà làm được. Như thế thì phàm người có chí khí, có tư tưởng, có phẩm cách cao là những người có văn cả, nếu dụng tâm làm văn thì văn ấy mới thực là văn chương.
09/06/2009Phạm QuỳnhKhoa học ngày một tấn tới, từ một trăm năm trở lại đây đã biến cải hẳn mặt địa cầu. Ta đứng xa mà trông những cảnh tượng kỳ kỳ quái quái, hằng ngày xuất hiện ra trước mắt ta, vừa kinh hãi, vừa cảm phục, không ngờ một khối óc mềm của con người mà làm nên những sự kinh thiên động địa như thế. Tuy ngày nay không tin thần thánh như xưa, không cho các công cuộc kỳ diệu ấy là bởi tay những bậc “siêu nhân” làm ra, nhưng lại đặt ra một vị thần mới, vô hình, vô ảnh, gọi là thần Khoa Học.
05/06/2009Phạm QuỳnhVấn đề quan trọng nhất trong nước ta ngày nay là vấn đề văn quốc ngữ. Vấn đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể tấn tới, dân trí mới có thể mở mang, cuộc tiến hóa sau này mới có thể mở mang được.
04/06/2009Phạm QuỳnhNói triết học, ai cũng nghĩ đến một môn học nghiêm trang, cao kỳ, huyền bí, bàn những nghĩa cao xa, xét những lẽ thâm thúy, người thường không thể hiểu được. Có người nghe đến tên triết học mà sợ, tưởng như cái yêu thuật của một phái cuồng nho dùng để huyễn diệu người đời. Bởi nhiều người hiểu lầm về triết học như thế, nên triết học đã hầu coi như một món không đàm, không có quan hệ gì đến sự thực, đến việc đời, mà nhà triết học thành nhà thuyết lý suông, chỉ biết mơ màng trong cõi lý tưởng.
03/06/2009Phạm QuỳnhThơ có hai phần: một là âm điệu, hai là tình tứ. Âm điệu là phần hình thức, tình tứ là phần tinh thần. Âm điệu tức là cách dùng chữ xếp vần, cho có âm hưởng tiết tấu để đọc cho êm tai vui miệng. Tiếng mỗi nước một khác thì âm điệu cũng không giống nhau, nên thi luật của nước nào là riêng cho nước ấy, không thể chuyển dịch sang tiếng nước khác được.
02/06/2009Phạm QuỳnhTiên nho có câu: “Muốn nhập môn đạo Khổng Mạnh, trước hết phải biết cách phân biệt điều nghĩa điều lợi.” Tiên nho gọi điều nghĩa, tức ta gọi là nghĩa vụ; tiên nho gọi điều lợi tức là quyền lợi. Hai cái quan niệm về nghĩa vụ quyền lợi thực là cái chốt của luân lý vậy. Nghĩa với lợi quan hệ thế nào, đó là một vấn đề rất trọng, người ta dù ở đời nào nước nào, cũng phải xét đến. Vì giải vấn đề ấy, tức là giải nghĩa đời người vậy.
28/05/2009Phạm QuỳnhCó những kẻ sẽ nói với các con rằng đó là những khái niệm lỗi thời, những quan niệm của một thời đã qua, rằng con người hiện đại cần phải là một con người cá nhân chủ nghĩa toàn vẹn, hay một người xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh nghĩa là hắn ta chỉ phải chăm lo cho hạnh phúc cá nhân và riêng rẽ hay, ngược lại phải làm việc vì hạnh phúc của toàn nhân loại, và gia đình với tổ quốc, đấy là những điều nhảm nhí cũ kỹ chỉ để thoả mãn những đầu óc câu nệ của đám tiểu tư sản ù lì trong những định kiến phản động của chúng. Những kẻ sẽ nói với các con như vậy, thì đấy là những người cuồng tưởng nguy hiểm hay những tên hề xấu xa. Chớ mà nghe theo họ...
15/05/2009Phạm QuỳnhNhân loại gồm nhiều người chết hơn là người sống, Auguste Comte đã nói ở đâu đó như thế. Ở nước Nam câu nói ấy của nhà triết học thực chứng Pháp càng đúng hơn ở bất cứ nơi nào khác. Quả vậy, việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội của chúng ta. Nó đã trở thành một thứ giáo lý tôn giáo, và, theo một nghĩa nào đó, một tôn giáo quốc gia thực thụ.
08/05/2009Phạm QuỳnhMột cuộc bàn cãi sôi nổi đang diễn ra ít lâu nay trong một số anh em đồng nghiệp báo chí nước Nam chúng tôi. Đó là về việc nước Nam có một nền văn hoá dân tộc không. Một dân tộc nổi danh hiếu học, tự hào về các bậc túc nho, qua bao thế kỷ có sản sinh ra được một nền văn hoá dân tộc mang bản sắc riêng không? Hay rốt cuộc nó chỉ là một cậu học trò, dù đôi khi là một học trò xuất sắc nhưng vẫn là một học trò của nước Trung Hoa, người mẹ của toàn bộ văn hóa và văn minh, cô giáo duy nhất của tất cả các dân tộc Viễn Đông?
28/04/2009Đặng Hoàng Oanh...một loạt tác phẩm của Phạm Quỳnh, từ Thượng Chi văn tập, Luận giải văn học và triết học, Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật kí cho đến Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932 đã “tái xuất”, đến tay độc giả. Tuy chừng đó cũng cho thấy sự phong phú trong sự nghiệp trước tác của một học giả một thời lừng lẫy và cũng một thời từng chịu nhiều tai tiếng. Đánh giá một cách công bằng và thỏa đáng về Phạm Quỳnh, công việc đó đòi hỏi nỗ lực, thái độ công tâm và khoa học của nhiều người...
21/04/2009Thạc sĩ Trần Văn ToànPhạm Quỳnh chính là tác gia lí luận và phê bình quan trọng nhất của văn học giao thời, và vì thế cũng là một trong những người mở đầu cho loại hình người viết lí luận và phê bình trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà. Sau ông, chỉ mãi đến 1929 ta mới thấy xuất hiện Phan Khôi, Trịnh Đình Rư nhưng những cây bút thực sự chuyên sâu - chuyên nghiệp thì phải tính từ mốc 1931 với Thiếu Sơn và sau đó là một loạt những gương mặt của Lê Thanh, Trương Tửu, Thái Phỉ, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan... Đó là một thực tế mà độ lùi của thời gian đã giúp ta có được sự điềm tĩnh cần thiết để có được một thức nhận và biện giải thật sự khách quan.
15/04/2009Phạm QuỳnhSự cuồng tín đối với tiếng mẹ đẻ này khởi từ cuộc xung đột nổi tiếng chia rẽ nước Bỉ giữa người Flamand và người Wallon. Cũng còn thấy nó ở đáy sâu của phong trào ly khai đã và đang khuấy động miền Alsacevừa giành lại được. Một tác giả nổi tiếng, ông RENÉ GILLOUIN, đã viết cả một cuốn sách về những xung đột ngôn ngữ này, cuốn sách nhan đề Từ Alsace đến Flandre: tính thần bí ngôn ngữ học. Quả thực, trong mối liên hệ của con người đối với tiếng mẹ đẻ của họ có một thứ tính chất thần bí và đó là một trong những thế lực đang tác động tới thế giới hiện đại.
09/04/2009Phạm Quỳnh (1)Thưa quý ngài, khi hai người không hoà thuận với nhau, các ngài bảo đó là họ không nói cùng một thứ tiếng. Chúng tôi thì nói: ngôn-ngữ-bất-đồng (không có cùng một ngôn ngữ). Đối với các cá nhân đã vậy; đối với các dân tộc càng như vậy. Để đi sâu vào tâm thức của một dân tộc, để có thể thiện cảm với nó, không gì bằng sự hiểu biết ngôn ngữ.
14/01/2009Phạm QuỳnhNhưng, không ngờ, đó là những giây phút cuối cùng ông sống và viết tại biệt thự Hoa Đường xinh đẹp, bên con sông An Cựu nhỏ hiền hòa, nắng đục, mưa trong. Ông không thể ngờ là bài viết yêu thích nhất lại là bài viết cuối đời của mình, sẽ mãi mãi dở dang ở ngay nơi mới bắt đầu khơi mạch văn…
Thói đời nóng lạnh, lòng người thắm phai; ai cũng nói thế, ai cũng biết thế, nhưng có từng trải mới thật biết thói đời điên đảo, lòng người xấu xa là dường nào. Nhất là đã để mình trong trường danh lợi, mới biết rõ những trạng thái ô uế ở đời. Kẻ xu nịnh mình buổi sáng là người phản bội mình buổi chiều.
25/11/2008Phạm QuỳnhCó chăng một vấn đề Phương Đông và Phương Tây? Đặt ra vấn đề về các quan hệ giữa hai phần đó của thế giới do sự đối lập hay sự đối kháng của chúng là đúng hay sai? Giữa chúng có những khác biệt đặc trưng cho phép một sự đối lập như vậy không?
13/11/2008Phạm Quỳnh (*)Có một thực tế là kể từ khi có cuộc Đại chiến ở Châu Âu, thì phong trào dân tộc cũng có mạnh lên và có quy mô lớn chưa từng thấy. Kết quả của cú sốc lớn này của các dân tộc là nó làm tăng thêm tinh thần dân tộc không chỉ ở những nước tham chiến, mà còn cả ở những nước ít nhiều có liên quan đến cuộc xung đột kinh hoàng này. Nó đã thức tỉnh nhiều quốc gia đang ngủ quên, đã khơi dậy ý thức và sức sống cho nhiều quốc gia khác mới chi ở dạng tiềm tàng, đã tái sinh hay khơi dậy ở tất cả các quốc gia sự ham muốn sống cuộc sống tự do và độc lập của mình, duy trì và thèm khát nuôi dưỡng tất cả những gì - ngôn ngữ, truyền thống, phong tục tập quán - tạo nên đặc tính riêng của họ, phân biệt họ ra, khu biệt họ với các dân tộc khác.