Thơ ta thơ tây
Vơ vẩn tơ vương hồn đại Việt
Thanh tao thép lột giọng Hàn Thuyên…
Giọng Hàn thuyên! Hồn Đại Việt! Hai câu ấy thực là gồm cả lòng hi vọng tối thiết của bọn ta. Than ôi! Ví sao mà ta khắc khoải trong lòng, ta băn khoăn trong dạ, vì sao mà ta mong ỏi mà tủi thương? Chẳng phải là từ xưa đến nay ta chưa từng đem cái giọng Hàn Thuyên này mà diễn cái hồn Đại Việt kia dư?
Bởi thế nên đến nay được ngâm những mảnh thơ nôm của các bậc tiền bối còn sót lại đến giờ, trong lòng có cái cảm giác vô hạn. Tưởng như hồn xưa của đất Việt ta còn phảng phất đâu ở trong mảnh thơ tàn văn vụn ấy mà vẳng đưa đến tai ta những giọng vui sầu của người thuở trước.
Cùng một tiếng khóc, cùng một giọng cười mà sao giọng cười tiếng khóc bằng cái lời họ Hàn kia, nó cảm ta như thế? Là bởi trời sanh ta để nói cái tiếng nói ấy, trời sinh ra cái tiếng ấy để ta nói ta có nói được bằng tiếng ấy mới nói được lòng ta, nói bằng tiếng khác là nói những chuyện không đau cả. Trong trời đất chỉ có tiếng nó ấy với ta, ta với tiếng nói ấy, là sẵn có duyên nợ với nhau vậy.
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi?
Ấy cái hồn văn nôm nó thường “trêu người” bọn ta là vì thế.
Không phải ngẫu nhiên mà tôi phát khởi ra tư tưởng miên man ấy. Chính là nhân đọc sách của một nhà quốc văn, đã dụng công sưu tập những thơ văn nôm của các bậc danh sĩ để lại. Sách ấy là sách Cổ súy nguyên âm, của ông Nguyễn Đông Châu, hiện mới xuất bản được một tập thứ nhất ở nhà Đông Kinh Ấn Quán. Ông Đông Châu muốn “đánh trống thổi sáo” để đón rước những bậc con cháu cụ Hàn Thuyên đã biết nối nghiệp tổ tiên mà ngâm vịnh bằng nguyên âm của nước nhà. Ông làm một việc đáng khen thay!
Ông chia sách làm bảy mục gồm cả các lối văn thơ nôm cũ 1.Thi, 2. Phú, 3. Kinh nghĩa, 4. Văn sách, 5. Ca từ, 6. Văn thư, 7. Đối liễn. Hiện nay mới in xong được một tập thứ nhất về mục thơ. Ta ước ao các mục khác sẽ kế tiếp mà xuất bản, cho mau thành một kho tài liệu về văn học nước nhà, và chứng tỏ cho thiên hạ biết rằng tiền nhân ta cũng có lưu tâm đến quốc âm, chứ không phải không.
Trong tập thứ nhất này ông giải tường về luật làm thơ. Xem ấy mà biết luật thơ cũng nghiêm như luật hình vậy: người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lẫn lộn, vần tất áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sành những khóe thôi - xao, giỏi những cách xuất sáo, mà gây lên những bức thanh âm tuyệt điệu; người nào không thuộc luật thì phạm những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình: nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ đọc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu, vân vân. Khuyên ai mới làm thơ phải học thi luật cho kỹ, đừng có bằng ở ai, mà cũng chớ nên cậy tài, kẻo mà lắm khi mắc phải những tội như trên!
Ông đã diễn hết các điều luật nghiêm khắc ấy rồi, ông bèn lục ra đến ngót trăm bài thơ để làm minh chứng cho những điều luật ấy. Thơ đủ các lối, thất ngôn bát cú, Đường luật bát cú, thủ vĩ ngâm, bát cú liên hoàn, bát cú họa vần, tứ tuyệt liên hoan; thơ yết hậu ( lối thơ này rất buồn cười); ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ cú, ngũ ngôn trắc. Trong tập này mới có cái lối đó, còn lối khác như: trường thiên cổ thể, lục bát, lục bát gián thất, ca từ (thơ ả đào, hát nói, v.v.) thì tập sau tất tiếp theo.
Trong các lối thơ ấy có lối Đường luật (8 câu 7 chữ) là thịnh hơn cả. Vậy nên xét qua cái “tâm lý” của lối thơ ấy. Nói tâm lý tất có người lấy làm lạ mà hỏi: Sao thể cách thơ văn mà cũng có “tâm lý” được? Xin đáp rằng: Thực như thế. Bao nhiêu người làm thơ theo cùng một lối, láy lối ấy làm hay làm tiện, đủ hình dung diễn đạt được sự cảm giác, cái tính tình tự của mình thì lối thơ ấy với tính tình người làm thơ tất có một mối quan hệ gì, không phải là không; nghiên cứu sự quan hệ ấy, tức là xét cái “tâm lý” của lối thơ, vì nhân đấy mà có thể biết được tính tình chung của các người làm thơ cùng dùng một lối ấy. Như lối Đường luật 8 câu 7 chữ chia ra làm bốn phần: hai câu 1-2 là câu đề ( phá đề và thừa đề), hai câu 3-4 là câu thực, hai câu 5-6 là câu luận, hai câu 7-8 là câu kết. Trong cái phạm vi 56 chữ ấy mà bộ phận rất chỉnh đốn, then máy rất cẩn mật phải làm thế nào vẽ được một bức tranh hoàn toàn, hình dung được cái ngoại cảnh của tạo vật cùng cái nội cảnh trong lòng người, cái nọ hưởng ứng với cái kia không hề ngang trái nhau. Đó là vấn đề khó mà các nhà thơ Tàu thơ ta phải giải quyết vậy.
Muốn xét vấn đề ấy giải quyết ra làm sao thì phải biết cái quan niệm riêng của người Tàu người ta về thi học cùng họa học. Ta coi thơ tức là vẽ, mà vẽ tức là thơ; thơ là vẽ bằng lời, bằng thanh âm, vẽ là thơ bằng hình, bằng màu sắc. Nên bức tranh sơn thủy tức là bài thơ tả cảnh biểu hiện ra cho mắt ta trông; mà bài thơ tả cảnh tức là bức tranh sơn thủy cất tiếng lên cho tai ta nghe vậy.
Như muốn vẽ bức tranh thì con mắt phải nhìn trong cảnh vật mà thu lấy cái hình ảnh, rồi mới tìm cách truyền thần ra giấy ra lụa. Muốn làm bài thơ cũng vậy, trong trí phải tưởng tượng ra một cái cảnh, hoặc là cảnh thiên nhiên, hoặc là cảnh trong tâm giới, rồi dùng những âm hưởng thích đáng mà gọi, mà kêu nó lên, khiến cho người nghe cũng phảng phất tưởng tượng như thế. Hai đàng cùng là vẽ cả, một đàng là vẽ cách trực tiếp, một đàng là vẽ cách gián tiếp, nhưng đều muốn khêu gợi ra mối tư tưởng cảm tình trong tâm trí người ta vậy.
Bởi thế nên phàm thơ Tàu, thơ ta, nhất là lối thơ Đường luật, thực là những bức tranh cảnh con con. Đã là bức tranh để vẽ cái cảnh thiên nhiên, hay cái cảnh thú trong lòng, thì phải theo khuôn khổ một bức tranh, phải phỏng nét bút người vẽ, nghĩa là phải làm thế nào mà truyền thần được cái cảnh trong mấy câu nhất định, không được hơn không được kém, không được kém, không được tùy cái sóng ngổn ngang ở trong lòng mà khi cao khi thấp, khi vắn khi dài vậy.
Ấy “tâm lý” của lối thơ luật như thế. Người ta thường nói thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề thơ, thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy, cho nó hay hơn, trúng vần trúng điệu hơn, nhưng vì đó có lẽ cũng làm mất cái giọng thiên nhiên đi ít nhiều vậy. Thử đọc bài thơ “Qua đèo Ngang”của bà huyện Thanh Quan:
Qua đỉnh đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây xen lá, đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà,
Luyến chúa đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia,
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Còn bức tranh nào vẽ khéo bằng! Thực như một mảnh sơn thủy ở các lọ sứ Tàu, đem phả vào khúc đàn hay vậy. Lời chuốt như ngọc, giọng êm như ru. Nào trời, nào nước, nào non, nào cây cỏ, nào đá hoa, nào chim kêu vượn hót, chẳng thiếu tí gì, lại thêm chút tình cảm động của kẻ tha hương, người lữ thứ một mình đối với cảnh trời cao bề rộng. Mà bấy nhiêu thứ chỉ trong khoảng 8 câu, 56 chữ. Một bài thơ như thế tuyệt bút.
Rằng hay thì thực là hay,
Nhưng hay quá, khéo quá, phần nhân công nhiều, mà vẻ tự nhiên ít, quả là một bức tranh cảnh vậy.
Cùng một đầu bài ấy, cùng một cái cảm hứng ấy mà vào tay một nhà thơ tây, thì tất vẽ không được khéo bằng, bức tranh có lẽ kém bề phong nhã, kém vẻ thanh tao, nhưng nét bút đậm đà biết dường nào, lời thâm thiết mà giọng hùng hồn, như đưa như cuốn cả tâm hồn người lên mấy tàng mây!
Thí dụ như bài thơ bằng chữ Pháp sau này, cũng là tả cảnh buổi chiều đi chơi núi, mà cảnh tình man mác ra bao nhiêu ý tứ cao thượng, bao nhiêu tư tưởng thâm trầm. Xin lục ra cả nguyên văn và dịch nôm na ra quốc ngữ, cốt diễn lấy nghĩa đen cho người không thông Pháp văn dễ hiểu, và để làm tài liệu so sánh tinh thần hai lối thơ.
Bài thơ Pháp đề là: “Buổi chiều chơi núi” (Soir en monlagne)(1). Lời rằng:
J’ai gravi par ce beau crepuscule d’eté
Ta cime abrupte, ô mont noir de gorges secrètes,
Qui te casques de rocs et de sapins te crêles,
Et jusqu’au plus altier faite je suis monté.La clarté desclinante envelope les choses,
Un calme eslyséen plane. A peine distincts,
Quelque cloche, un torrent font vibrer des lointains
Noyé dans un brouillard tissu de gazes roes.Rougis d’obliqes feux, des troupeaux mugissants
Melent, semant les prés de taaches purpurines,
Aux tintements espars l’angelus les clarines,
Et du mont solitaire animent les versants.Une sereine extase, une paix infinie
Me gagnent. Le soleil à peine disparu
Couronne les sommets voisins où l’ombre a crú,
Des pourpres de sa brève et royale agonieDes trésors oubliés de tendresse et de foi
Soffrent à ma pensée en qui tout s’xagère,
J’imagine qu’avec plus de Fraicheur légère
Mon aame de dix ans se renouvelle en moi.Déjà transfiguré d’ivresse intérieure,
Je me refais petit, ingénu: je reviens
Sans nul effort à des souvenirs très anciens,
Comme va ce qui à ce qui seul demeure.Puis délivré d’un corps presque immatériel,
Ma candeur reconquise en sa grâce enfantine,
Sur les illusions sans nombre je butine,
Abeille heureuse éclose à la saison du miel.Et je crois, tellement l’atmosphère est subtile,
Respirer un air vierge où des baumes divins
S’épandent, exhalés d’invisiles ravins,
Et vivre un de ces soirs que le Reeve distille.Des paysages d’or s’évoquent enchaneteurs,
Et des impressions ressuscítent naives.
Je suis le fil d’um jleuve aux lumineuses rives,
Au caressant murmure, aux suaves senteure.Et le courant m’entraine aux chères nostalgies
De limpides séjours et d’horizons élus,
Si tranquilles, si purs, que je ne les vois plus
Qú à travers la splendeur d’exaltantes magies.Et, quand je redescends vers les hommes, longtemps
Ebloui d’um reflet du passé qui persiste,
Fe médite d’um coeur moins amer et moins triste
Sur ce mystérieux au-delà que j’attends.
Diễn nghĩa ra quốc ngữ:
“Mùa hạ, bóng chiều đã xế, trời sáng tạnh, ta trèo lên ngọn tranh vanh của nhà ngươi, hỡi núi cao! Ngươi tối sầm những vực sâu hang thẳm, đầu ngươi đội mũ đá, mọc sừng thông (là cây thông). Ta trèo mà ta lên tận trên đỉnh thật cao.”
“Bấy giờ bóng tà dương bao bọc cả cảnh vật. Trời đất phẳng lặng như tờ. Chốc chốc có tiếng chuông đánh, tiếng suối reo, xa đưa thoảng lại, như rung động cả bốn bề. Sương mù dủ che, như căng bằng thứ màn sa đỏ.”
“Trông lên cánh đồng lốm đốm những đám đỏ, tức là ánh trời chiếu xiên khoai vào mấy đàn bò, vừa đi vừa kêu, tiếng đàn rung, xa đưa đồng vọng với những tiếng động khác mà vang khắp sườn núi trơ vơ.”
“Trong người tôi thấy bình tĩnh, cao hứng vô cùng. Mặt trời mới bắt đầu lặn, các núi chung quanh đã tối dần, nhưng trên đỉnh tròn chói lọi sáng, tựa hồ như ông Đông quân trước khi từ biệt thế gian còn muốn ra oai rực rỡ trong một giây phút sau cùng nữa.”
“Tư tưởng tôi bấy giờ khoát đạt vô cùng, thấy trong lòng như có kho tình bể ái, lâu nay không từng tưởng nhớ đến. Tôi tưởng cái hồn như lúc mười bốn tuổi nó lại tỉnh thức lại trong người tôi mát mẻ và nhẹ nhàng.”
“Trong lòng như say như mê tưởng đã thay hình đổi dạng, nay lại bé nhỏ, lại ngây thơ xưa. Tự dưng mà hồi lại những việc cũ, như cái gì qua đi muốn quay về với cái còn lại.
“Rồi thấy hình như mình thoát ra ngoài cái thân thể vô hình, khôi phục lại cái tâm hồn tuyết trắng hoa thơm thủa đồng ấu, khác nào như cái ong nở ra giữa mùa mật, tha hồ mà hút những bông hoa ảo tưởng.”
“Khi trời rất thanh tịnh tưởng như cái không khí mình thở là cái không khí cực trong sạch, lựng thơm những mùi hương thần ngào ngạt tự nơi hang sâu vực thẳm nào đưa lên; mà chiều hôm nay thì là một buổi chiều của thần mộng gây nên vậy.
“Những cảnh hoàng kim xuất hiện ra phấp phới, những mối cảm giác cũ khôi phục lại tơi bời. Tinh thần như theo giải doành ngân, nước chảy như ru, hương đưa ngào ngạt.”
“Nước chảy đưa đến bờ tưởng nhớ, tưởng nhớ những nơi tiên cảnh bồng lai, rất bình tĩnh rất thanh tịnh, chỉ lúc tuyệt hứng mơ màng tưởng mới trông thấy được.”
“Đến khi ở trên núi xuống, trở về với người đời, trong trí vẫn còn phảng phất những chuyện cũ. Bây giờ tôi nghĩ đến cõi lai sinh là nơi tôi sắp đến đây, thấy trong lòng đã bớt giận mà bớt buồn”.
Chắc rằng “bức tranh” tây không được gọn ghẽ, không được chải chuốt, không được “thép lột” bằng bức tranh ta, nhưng tình tứ dồi dào biết dường nào tư tưởng siêu việt biết bao nhiêu! Cái cảm hứng người ta lúc đăng lâm, thực là giãi bày ra hết lời hết ý. Lên cao trông rộng thì tâm hồn nở nang khoát đạt ra. Bao nhiêu những tư tưởng nhỏ nhen là cái tâm cảnh thường ở trong đám rừng người huyên náo, tiêu tan hết cả. Hô hấp cái không khí trong sạch ở nơi thượng tầng thì tinh thần tỉnh táo ra, hồi tưởng lại những việc cũ, mộng du những chốn bồng lai tiên cảnh. Tưởng mình như lại trở về tuổi đồng ấu, tuyết trắng hoa thơm. Đến khi xuống thì trong lòng sạch cả mọi sự phiền muộn oán phẫn, nghĩ đến cái chết cũng không sợ nữa… Ấy cái tình cảm của nhà thơ triền miên mà vấn vít như thế, không thể xếp thành bức tranh cảnh, không thể thu trong vòng tám câu thơ được.
Cứ so sánh hai lối thơ ấy thì biết hai cái tinh thần khác nhau là dường nào. Một bên thì vụ bề nhân công, một bên thì chuộng vẻ thiên thú. Vụ bề nhân công thì chủ lấy cực kì tinh xảo, làm bài thơ như chạm một hòn ngọc, uốn một cái cây, sửa cái vườn cảnh, thế nào cho trong một cái giới hạn nhất định, thêu nên bức gấm trăm hoa. Chuộng vẻ thiên thú thì nhà thơ tự coi mình như cái phong cầm, tùy gió thổi mà nên tiếng:
Tiếng trong như hạc bay qua,
Tiếng đục như tiếng suối mới sa nửa vời…
Lời thơ phải tùy theo lớp sóng trong lòng là khi dài khi ngắn, khi thấp khi cao, không thể cầm giữ trong phạm vi nhất định.
Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa nơi giao tiếp của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra thì có thể điều hòa được. Cái hay của hai đàng mà không mắc phải những điều khuyết diểm. Ta cứ nên giữ cái lối “tranh cảnh” của ta, nhưng ta nên rộng cái khuôn của nó ra một chút mà bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người. Có thế thì thơ văn nôm của ta mới có thể phát đạt nên được.
Dù vậy cốt nhất vẫn là phải nuôi lấy cái “hứng” ở trong lòng trước. Đã có cảm hứng đặc biệt thì làm thế nào cũng tìm được lời thích đáng mà diễn ra.
Nhân đọc sách “Cổ xúy nguyên âm” của ông Nguyễn Đông Châu mà chạnh nghĩ ra những ý kiến ngổn ngang như thế, nghĩ làm sao thì viết ra làm vậy, đâu dám tự phụ xướng ra một lý thuyết mới về thơ tây với thơ ta!
(1917)
(1) Bài thơ này của Léonce Depont là một nhà làm thơ có tiếng ở Pháp thời nay. Ông mới mất được mấy năm nay. Thơ ông hay lắm bình sinh vẫn được suy tôn là bậc “thi bá” (le prince des poésies). Như bài thơ này, không những ý tứ cao, từ điệu rất là điều hòa thanh xướng. Lục ra đây để các nhà tây học thưởng giám. Ai không biết chữ Tây, xin xem qua lời dịch quốc ngữ cho biết đại khái lời lẽ ý tứ của thơ tây, còn âm điệu thì không tài nào dịch ra được
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCách đây một thế kỷ, những người khổng lồ
12/05/2009Nguyên NgọcTiền... bạc
25/06/2009Linh Linh