Về tác phẩm văn học đỉnh cao

10:08 CH @ Thứ Sáu - 30 Tháng Sáu, 2006

Trong những năm vừa qua, mặc dầu Hội Nhà văn Việt Nam và nhiều tổchức văn học và nghệ thuật khác đã trao giải thưởng văn học thường kỳ, một năm hoặc 5 năm một lần, nhưng hầu như các tác phẩm và tác giả được giải rất mau chìm vào quên lãng. Chúng ta đang thiếu vắng các tác phẩm văn học lớn, có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, những tác phẩm có khả năng rung động hàng triệu người, những tác phẩm có tác động xã hội to lớn, vừa trực tiếp lại vừa lâu bền. Chúng ta khát khao chờ đợi và đi tìm các tác giả có thể viết nên những tác phẩm ấy. Nhưng trước hết phải gọi tên, phải "duy danh định nghĩa" được cái mà chúng ta chờ đợi, cái mà chúng ta lùng tìm.

Trên các văn bản ở cấp Nhà nước hay cấp đoàn thể cơ quan nghiên cứu, khái niệm tác phẩm văn học đỉnh cao được diễn đạt một cách khác nhau bộc lộ những quan tâm không hoàn toàn giống nhau về cùng một vấn đề.

Nhiều người nói đến Tácphẩm lớn, nhưng thế nào là lớn lại rất khó nói ra. Nhiều nhà văn thì xổ toẹt khái niệm ấy, bảo rằng tôi chỉ quan tâm đến hay hay dở, tôi không biết thế nào là lớn hay là bé. Có lẽ, tuy không nói ra, nhưng những người gạt bỏ khái niệm Tácphẩm lớnchỉ muốn suy tôn nghệ thuật làm cứu cánh. Cuộc cạnh tranh Nghệ thuật vị nghệ thuật- Nghệ thuậtvị nhân sinhdiễn ra từ trên nửa thế kỷ trước mà cái luẩn quẩn trong tư duy của một số người vẫn còn đến bây giờ. Tuy không nói ra, nhưng những người tôn vinh cáihay đã ngụ ý xem thường những giá trị tư tưởng cần thiết cho cộng đồng ở một giai đoạn. Ở nhiều giai đoạn hay cả một thời đại. Hoặc họ hồn nhiên quá.

Cũng nói tới tác phẩm văn học đỉnh cao, một số văn bản lại dùng khái niệm: Tácphẩm ngang tầm với thời đạinhững giai đoạn lịch sử mà nhiệm vụ chủ yếu là đánh giặc cứu nước thì tinh thần thời đại là gì, tầm vóc thời dại là gì là tương đối rõ vào chặng đường sau, hoặc chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình và nhất là chặng đường tiến hành kinh tế thị trường trên định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, những khái niệm ấy được nói rõ ra không dễ dàng gì.

Trên một số văn bản khác, khái niệm tác phẩm văn học và nghệ thuật đỉnh cao được dùng trong tổ từ Tácphẩm đặc biệt xuất sắc.Tất nhiên, tác phẩm đặc biệt xuất sắc là cao hơn xuất sắc, nhưng đặcbiệt như thế nào, có bao nhiêu tiêu chuẩn được gọi là đặc biệtthì không một cơ quan nghiên cứu nào nói rõ.

Tuy cách gọi, cách hiểu về tác phẩm văn học đỉnh cao có khác nhau nhưng về sự ngầm hiểu thì xem ra tính đồng thuận xã hội cũng rất cao. Cái mà chúng ta cần là tác phẩm mà mỗi người dân đều có quyền tự hào rằng, đấy là tác phẩm của dân tôi. Đó là những tácphẩm vừa hiện đại vừađậm đà bản sắc dân tộcnhư trong các mục tiêu phấn đấu của các ngành văn học và nghệ thuật và trong các văn bản Nghị quyết của Đảng về văn hóa văn nghệ đã nói rõ.

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ nói về Tácphẩm vănhọc đỉnh caomà không phải là tác phẩm văn nghệ nói chung vì hai lẽ:

Một là, tác phẩm văn học không chỉ có tác động xã hội bằng chính thể loại của nó mà còn có tác động thông qua nhiều ngànhnghệ thuật khác. Tác phẩm văn học có thể chuyển thể thành kịch bản phim, kịch bản sân khấu. Mối giao thoa giữa âm nhạc và văn học, giữa múa và văn học, thậm chí giữa kiến trúc và văn học là sự hiển nhiên.

Hai là, từ tính đơn phương độc mã của văn học. Sáng tác văn học là bởi một người, bởi tính kỷ luật cô đơn tuyệt đối của nhà văn mà các ngành nghệ thuật khác không có. Nghiên cứu về việc ra đời của tác phẩm văn học đỉnh cao có thể có ích với các ngành nghệ thuật khác. Xét về lịch sử phát triển, có thể nói thêm rằng, trong sự xuất hiện một trường phái văn học nghệ thuật (như cổ điển, lãng mạn, hiện thực...), ngành đi đầu thường là hội họa, sau đó là âm nhạc, cuối cùng định hình một trường phái bao giờ cũng là văn học. Người ta nói tới tác phẩm văn học tiêu biểu của một thời như sự tổng kết tư tưởng của thời đó là ở đặc điểm này.

Cách mạng tư sản Pháp 1789 thắng lợi không chỉ là bước ngoặc lịch sử của nước Pháp mà còn thay đổi cả tiến trình phát triển của cả Châu Âu. Hai đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng ấy là sự giải phóng Nhà nước rakhỏi nhà thờvà giải phóng cá nhân con người rakhỏi cáiràng buộc phong kiên và tôn giáo.Các tác giả và tác phẩm văn học tiêu biểu của nước Pháp thời ấy, còn lại với lịch sử là vì đã thấm đẫm cả hai đặc điểm vừa nêu. Nói cho chính xác hơn, chính cuộc cách mạng về tư tưởng bộc lộ trên văn học Pháp đã là sự chuẩn bị sâu sắc nhất cho cuộc cách mạng Pháp 1789. Đó là một ví dụ.

Một ví dụ khác có thể lấy ngay là từ hiện thực của đất nước thân yêu của chúng ta là các tác phẩm của một trong vài tác giả lớn nhất thời phong kiến là đại thi hào Nguyễn Trãi. Sở dĩ văn chương Nguyễn Trãi trở thành tài sản quý giá của dân tộc vì ông là đại biểu tư tưởng lớn nhất của nhiều thế kỷ của dân tộc ta, một dân tộc cả một chặng đường dài phải đứng lên tự khẳng định mình. Con đường tự khẳng định của dân tộc, của quốc gia bắt đầu từ rất sớm nhưng nó chỉ thật rõ rệt khi va chạm lớn với ngoại xâm, bắt đầu bằng khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thế kỷ thứ nhất để mãi đến thế kỷ thứ XV mới có được Nguyễn Trãi. Con đường dài ấy qua 6 triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, quá dài và quá gian nan. Nếu ai hỏi ý thích cá nhân của người viết bài này về các tác phẩm của Nguyễn Trãi thì tôi nói rằng, tôi thích thơ Nôm, những bài thơ về thôn dã của Nguyễn Trãi hơn chữ Hán của ông. Nhưng Nguyễn Trãi không là Nguyễn Trãi nếu không có Bình Ngô ĐạiCáo. Bình Ngô ĐạiCáo là phát ngôn tư tưởng bằng văn học mà tư tưởng ấy đã dồn nén của cả một dân tộc qua cả chặng đường dài. Tư tưởng ấy là: Đất của Việt Nam, vua của Việt Nam nữa, là sự tồn tại như trời định, ở ngoài mọi mưu toan của thế lực ngoại bang nào, dù lớn đến đâu Độc lập và tự chủ là phẩm chất sẵn có của nước này, dân này. Số phận của một người với số phận của cả cộng đồng gắn bó làm mộttrong các quốc gia thống nhất. Trước Nguyễn Trãi đã có nhiều tác giả, bằng hiện thực hiển hách mới nói được tập trung, được thấu đáo được hả hê đến vậy.

Ví dụ trên cho thấy, những tác phẩm lớn, những tác giả lớn ra đời như sản phẩm của chính lịch sử.

Chính lịch sử oanh liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã sản sinh ra văn học chống Mỹ cứu nước. Nhân vật anh đội viên vệ quốc đã trở thành anh chiến sĩ giải phóng. Cái mũ nan đã trở thành cái mũ tai bèo. Đó là cả một chặng đường liền khi lịch sử tư tưởng của nhân dân ta bước sang một chặng đường hoàn toàn mới, trước đó chưa hề có. Đó là sự thăng hoa kỳ diệu của cả dân tộc khi mục tiêu độc lập dân tộc hòa quyện với hoài bão xã hội chủ nghĩa. Nhân vật người chiến sĩ của thời đại Hồ Chí Minh trở thành nhân vật điển hình, nhân vật chói sáng không chỉ ở trong nước mà còn chói sáng trên phạm vi quốc tế. Nhân vật ấy đã trở thành nhân vật văn học của cả một thời kỳ lịch sử hiển hiện trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết và đặc biệt là trong thơ. Cùng với ca khúc kháng chiến, thơ ca chống Mỹ cứu nước là sản phẩm tinh thần quý giá của cả một thời kỳ lịch sử.

Những bao quát trên đây nói rằng, lịch sử xuất hiện tác phẩm văn học đỉnh cao cũng là lịch sử tư tưởng của mỗi chặng đường, ở trong nước, cũng như ở ngoài nước. Cái làmnên cốt cách vững chắc của tác phẩm văn học là cốt cách tư tưởng. Nói tới tầm thời đạinhư ai đó đã nói, chủ yếu là tầm của tư tưởng của thời đại ấy.

Việc xây đựng tác phẩm văn học đỉnh cao ở chặng đường vừa qua gặp không ít cản trở.

Đầu tiên, phải nói tới sự chống phá của các thế lực thù địch. Trong mưu toan thay đổi hành trình tư tưởng của xã hội Việt Nam, các thế lực thù địch bằng mọi cách lôi kéo tầng lớp trí thức trong đó có nhà văn, đặc biệt là giới trẻ, tạo nên sự phân tâm trong tư duy sáng tác, trong thưởng thức và đánh giá văn học. Cái vở diễn của họ vẫn là vở cũ: hướng tới mục tiêu dân chủ và nhân quyền. Nhưng cái cần phải nói thêm là cái dân chủ, cái nhân quyền ấy được đánh lạc hướng bằng cách tách cá thể ra khỏi cộng đồng, tách quyền lợi riêng mỗi người ra khỏi quyền lợi chung của cả đất nước, của cả dân tộc. Nền dân chủ và quyền làmngười của nhân dân ta hiện nay phải đổi bằng xương máu để được sống trong độc lập tự do mà các thế lực ngoại xâm đã cướp đi, phải bao thế hệ mới giành lại được. Họ đã tiến hành điều này bằng cách ca tụng người này, tâng bốc người kia. Họ lập ra các giải thưởng văn học, giải thưởng nhân quyền để trao cho người này, người khác. Có những cây bút trẻ vừa mới có một ít tác phẩm trên báo, dư luận người khen, kẻ chê thì đã được họ mời ra thì đã được họ mời ra nước ngoài dự hội thảo này, hội thảo khác. Họ tưng lên cây bút x cây bút y có thể ứng cử giải Nobel văn học... Câu chuyện ngỡ như trò đùa nhưng thực là những việc làmbài bản, được các thế lực thù địch dự tính công phu. Làm khúc xạ tiêu chuẩn văn học một thời là mục đích của chúng.

Một cản trở khác trong việc phấn đấu để có tác phẩm văn học đỉnh cao hiện nay là sự đánh giá văn học thông qua các giải thưởng văn học của các địa phương, giải thưởng thường niên của ngành và giải thưởng lớn là giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Cũng phải thông cảm phần nào với các Hội đồng thẩm định. Rằng họ là những bạn đọc tiêu biểu của công chúng dài ngày nhưng bị lệ thuộc bằng nhiều mối quan hệ xã hội chi phối. Cái đáng phàn nàn là các giải thưởng ấy chưa cổ vũ được, chưa định hướng mạnh mẽ cho tinh thần cộng đồng của toàn xã hội hôm nay. Lấy một ví dụ cụ thể các nhà văn nhà thơ mà tôi gọi là những người nằm nôi trong chế độ mới (sinh ra và lớn lên sau cách mạng tháng 8) chỉ có một người được giải thưởng cao nhất là nhà thơ Lưu Quang Vũ mà tác phẩm được giải là tác phẩm kịch ở chặng Đổi mới. Tất cả các nhà thơ, nhà văn thời chống Mỹ đều không có ai. Việc đích giá như thế thông qua các giải thưởng liệu có công bằng không?

Việc lúng túng của các Hội đồng thẩm định còn bắt nguồn từ một bất cậpkhác: Công tác lý luận phê bình văn học chưa làm được vai trò dẫn đường. Lẽ ra, mấy khái niệm thế nào là lớn, thế nào là đỉnh cao, thế nào là đặc biệt xuất sắc phải được nghiên cứu công phu, làm định hướng chung cho giới sáng tác và công chúng yêu mến văn học. Công tác phê bình văn học vừa thiếu cập nhật vừa tùy tiện như chặng đường vừa qua cũng làm nhiễu thêm các bên đánh giá.

Tuy nhiên, những cản trở đã nói là không đáng kể so với tiến trình văn học tất yếu đi tới của cả một cộng đồng. Văn học nói riêng và văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung đang ở vào một thời kỳ vô cùng quan trọng: thời kỳ dân tộc Việt Nam tái khẳng định mình trong điều kiện hòa nhập quốc tế rộng rãi mà trước đó chưa từng có. Việc tái khẳng định ấy là tái khẳng định về một dân tộc quyết độc lập tự chủ, tái khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tái khẳng định về một bản lĩnh lớn là quyết đi lên một xã hội công nghiệp phát triển. Việc tái khẳng định ấy chắc chắn sẽ được thể hiện rõ ở các nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng sẽ vạch ra. Việc tái khẳng định ấy đòi hỏi những nỗ lực vượt bậc của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trước bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện và rộng khắp. Bối cảnh ấy chính là bối cảnh để những tác phẩm văn học đỉnh cao, vừa có tầm dân tộc vừa có tầm quốc tế ra đời.

Đông đảo quần chúng nhân dân đang chờ đợi và đang sẵn sàng đón nhận, sẵn sàng tuyên dương các tác phẩm văn học lớn, tác phẩm đỉnh cao ra đời. Một ví dụ có tính thời sự: hai tập nhật ký của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc mới được công bố đã được đông đảo bạn đọc cả nước nồng nàn đón nhận. Công chúng không hề quay lưng với văn học. Vấn đề là ở chỗ nhà văn đem đến cho họ cái gì và thế nào mà thôi. Và về điều này thì tôi hoàn toàn tin rằng các nhà văn Việt Nam, đủ mọi thế hệ, vì cái đẹp, cái thiện, vì sự thăng hoa tinh thần của cả cộng đồng sẽ có các tác phẩm đỉnh cao, đáp ứng lòng mong đợi và tin cậy của công chúng.

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Cái đẹp trong mắt ai

    08/03/2016Phan Cẩm ThượngKhi ứng xử xã hội trở nên thực dụng, thì thẩm mỹ cũng mang tính thực dụng như một thứ thị hiếu trọc phú... Nhưng đã là muộn bởi “Giáo dục thẩm mỹ lại không thể làm từ thấp đến cao, mà phải dạy cao ngay từ đầu”...
  • Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?

    02/11/2015Nguyễn Thanh SơnBởi vì, chúng ta không thể trả lời câu hỏi "tiểu thuyết Việt nam đang ở đâu?", nếu không trả lời được câu hỏi "tiểu thuyết Việt nam đã ở đâu?". Với khoảng một trăm năm văn học quốc ngữ, tiểu thuyết Việt nam đã đi được bao xa trên đoạn đường mà tiểu thuyết châu âu đã đi hơn 400 năm?
  • Cỗ máy sản xuất cái đẹp?

    22/06/2015Nguyễn Bỉnh QuânCái đẹp có vẻ thực sự cao siêu như vậy nhưng lại là chuyện thường ngày, quanh ta, mọi lúc, mọi nơi. Michelangelo từng hài hước rằng ông không làm ra pho tượng David mà chỉ ngẫu nhiên nhìn thấy nó trong khối đá mà thôi...
  • Lý tưởng xã hội và người viết trẻ

    25/01/2015Hồ Sĩ VịnhTrong xã hội ta hôm nay, thường có một thiên kiến dai dẳng: Tuổi trẻ đồng nghĩa với sự non dại, non dại đến độ vấp ngã. Một bộ phận cha anh thường nhìn họ với cặp mắt hoài nghi và tâm trạng bất an. Đó là một sự thật, dù nghiệt ngã. Thế mà trong văn học, tình hình lại khác. Hầu hết các tác phẩm của các nhà văn bậc thầy đều được sáng tạo ở tuổi 25-35. Ma lực sáng tạo, điện năng văn chương của họ hình như được tích tụ và phát sáng ở thập niên đầu tiên của nghề cầm bút ở nước ta cũng có tình hình tương tự...
  • Cái đẹp muôn hình muôn vẻ

    10/11/2014Văn NgọcTạo hóa (hay Nghệ thuật?) oai oăm thay, bày đặt ra cái đẹp, nhưng lại không cho biết cái chìa khóa của nó nằm ở đâu, sự vận động của nó như thế nào? Vậy thì trước tiên, ta cần xem xét xem ý niệm đẹp từ đâu mà có và làm sao nắm bắt được nó?
  • Văn chương và Ngòi bút

    13/05/2006Phan Việt, GS. TS. Lê Ngọc TràVăn học luôn luôn cần có cái mới, nhất là văn học hôm nay, khi mà bản thân đời sống đã thay đổi rồi mà văn học hình như vẫn chưa thay đổi mấy. Cái quyết định sự đổi mới ấy vẫn là nhà văn. Mà nhà văn muốn làm được thì trước hết không phải là đòi tự do để được viết mà là phải tự do vớingòi bút của mình...
  • Văn học không thể từ chối vun đắp cho con người và kiến tạo cuộc sống

    13/05/2006Hoàng HoaThực tế đời sống văn học trẻ trong 5 năm qua đã được đánh giá một cách xác đáng, phải nhẽ từ lời những người có trách nhiệm trong lễ khai mạc Hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ VII. Trong 5 năm qua, cuộc sống đã có nhiều thay đổi, đời sống văn học ngày càng cởi mở hơn, dân chủ hơn. Bên cạnh những lớp nhà văn đi trước, nhiều nhà văn trẻ đã vượt lên, đồng thời nhiều cây bút mới lại xuất hiện...
  • Cái cần cho văn học trẻ

    08/05/2006Như HàPhải nói ngay rằng, cái cần cho văn học trẻ vừa là một khái niệm, vừa là một câu hỏi khá chung chung. Thế nhưng, tự thân mỗi người cầm bút lại hay đặt ra trong những lúc muốn nhìn lại công việc viết lách của chính mình...
  • Nghề văn và những động lực sáng tạo

    19/02/2006Hồ Sĩ VịnhLý tưởng xã hội là cái nằm trong bầu máu nóng, là mục đích cao nhất, là lẽ sống đẹp nhất của đời người. Ở nhà văn, những yếu tố nói trên biến thành nguồn nội lực văn hóa, lý tưởng càng được thắp sáng, bầu nhiệt huyết càng sôi sục thì tác phẩm của họ càng được công chúng nồng nhiệt đón đợi...
  • Biện chứng cá nhân – xã hội trong cảm thụ thẩm mỹ

    12/02/2006TS. Lê Đinh LụcCảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái "tôi" cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người...
  • Tập sống và nghĩ cùng nhịp với thế giới

    27/01/2006Vương Trí NhànSáng tác của Nguyễn Tuân thời tiền chiến thường được xem xét theo một định kiến thiên lệch. Trong khi trình độ nghệ thuật của chúng được đề cao thì nội dung xã hội lại bị lên án. Nhưng đọc lại Nguyễn Tuân, chúng tôi muốn đề xuất một cách đánh giá khác...
  • Hãy làm ra sản phẩm văn chương tốt

    20/01/2006Phan ViệtThường các nhà văn có hai cách cơ bản để thể hiện trách nhiệm của mình với thời cuộc. Cách thứ nhất là cách trực tiếp, không chỉ viết mà còn tích cực tham gia các phong trào chính trị, xã hội đến mức có người bị trục xuất khỏi tổ quốc. Cách thứ hai là gián tiếp dùng văn chương của mình để nói về những bất công trong xã hội, về những người bị thiệt thòi, vẽ ra cơ chế đàn áp thể xác và tinh thần con người, thách thức những điều kiện và niềm tin chung...
  • Văn chương 2005 - tín hiệu vui và “giấc mộng bất thành”

    19/01/2006Nguyễn Hòa (nhà phê bình văn học)Văn chương năm 2005 còn nhiều chuyện để bàn và một cá nhân khó lòng bao quát hết. Hướng đi mới có sớm được xác định hay không, chắc chắn đây không phải là công việc của một người hay một nhóm người, đấy là công việc của số đông.
  • Về tính duy nhất của nghệ thuật

    12/01/2006Bình NguyênTôi hằng tin mỗi tác phẩm nghệ thuật đều hàm chứa tính duy nhất, dù cho đôi khi chúng có sự trùng lặp nhau ở mức độ cao. Mỗi sáng tạo là duy nhất, mãi mãi duy nhất. Cái duy nhất này tự nhiên, nó toát ra từ giá trị cốt lõi của tác phẩm không phải từ những bồi đắp bề ngoài.
  • Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội

    05/01/2006Vũ Minh TâmTrong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế - xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau...
  • Sôi nổi, ồn ào và... thiếu đẹp

    31/12/2005Nguyễn TrầnNhìn lại năm 2005 về lực lượng sáng tác văn học trẻ, người ta chợt giật mình với những câu chuyện từ nó. Có sôi nổi, ồn ào không? Có! Nhưng, cái thiếu ở đây là những ứng xử đẹp giữa các người trẻ với nhau, giữa người không trẻ với người trẻ và vì thế, qua đi một năm 2005, người đọc chỉ còn thấy... nỗi buồn văn chương...
  • Khởi sắc trong sự nhiễu loạn

    30/12/2005Nguyễn HòaNăm 2004 đã qua và nếu so với một quá trình văn chương thì một năm xem chừng chỉ là một khoảnh khắc. Nhưng một năm qua đi cũng lại bao gồm trong nó công việc của hàng nghìn người viết văn, làm thơ mà sản phẩm của họ trên một ý nghĩa nào đó đã góp phần làm nên diện mạo tinh thần của một thời đoạn lịch sử...
  • Giá trị thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật

    20/12/2005Nguyễn Văn PhúcTrên bình diện đánh giá - giá trị, chất lượng nghệ thuật của một tác phẩm được hiểu là giá trị nghệ thuật của tác phẩm đó. Nhưng bản chất của giá trị nghệ thuật là gì ? Nói khác đi những yếu tố nào quy định giá trị của tác phẩm nghệ thuật, và do đó, như thế nào là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị? v.v... Đó là những câu hỏi không dễ giải đáp.
  • Làm gì để có tác phẩm ngang tầm thời đại?

    02/12/2005Lê Quý KỳCâu hỏi này được đặt ra từ nhiều năm nay và gần đây trở thành chủ đề chính của nhiều cuộc gặp gỡ, hội thảo lớn do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Trăn trở thì nhiều, nhưng câu trả lời dường như còn nằm đâu ở phía trước, rất xa. Tại sao?
  • Trực diện với Văn học Việt Nam thế kỷ XX

    01/12/2005Nguyễn HoàBị hấp dẫn bởi tên gọi Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tôi đã đọc cuốn sách với hy vọng được mở mang tầm nhìn, được bổ sung tri thức, được giúp lý giải các hiện tượng, các vấn đề lý luận - thực tiễn của văn chương - văn học dân tộc trong thế kỷ XX. Tiếc thay càng đọc thì nỗi thất vọng lại càng lớn dần...
  • Nhà văn Đỗ Chu: “Cô đơn được càng tốt !”

    24/11/2005Hồng Thanh QuangNhà văn là người có quyền lật đi lật lại vấn đề mà anh ta quan tâm. Và phải biết lật đi lật lại! Chả có gì mâu thuẫn trong việc này. Thì suốt cuộc đời, người ta ai mà chẳng phải trăn trở, nghĩ ngợi. Đâu phải nhất nhất mọi việc, mọi chuyện đều bất biến... Trong quá trình nhận thức của một đời người, quan trọng là xác lập cho được những câu hỏi lớn, chứ không phải là thuộc lòng vài ba câu trả lời lớn. Biết đặt ra những câu hỏi mới khó!
  • Văn học thời đổi mới

    23/11/2005Lê Quý Kỳ
  • Còn nhiều người cầm bút rất có tư cách

    08/11/2005Nhà văn Nguyên NgọcVăn học ta không yên đâu. Nó đang quẫy cựa, hình như ngày càng mạnh mẽ, cả quyết liệt hơn nữa, để nói về cái thế giới mà nó biết là không hề đơn nghĩa, tuyến tính, tất định này, và nói cũng bằng một ngôn ngữ đa nghĩa, đối thoại, dân chủ, ngày càng dân chủ hơn. Và như thế là đáng mừng...
  • Sự dễ dàng đã bóp chết nhà văn

    13/11/2005Nhà văn ThuậnTiểu thuyết Việt Nam ì ạch trên cái mặt bằng không chuyên ấy của văn học Việt Nam. Đến bây giờ vẫn loay hoay tìm cách kể chuyện làm sao để vừa ê a, vừa hấp dẫn; làm sao cho thơm mùi trí thức, mùi đương đại...
  • 'Tôi' như là kẻ mang thông điệp: Cơ sở cho một hệ biến hóa văn bản tự sự

    29/10/2005Ngô Tự LậpNhưng nói rằng cái "Tôi" đóng vai trò quan trọng trong tuỳ bút, hay trong ký nghệ thuật, thì cũng có nghĩa là nói rằng nó ít quan trọng hơn trong các thể loại khác, và như vậy, gián tiếp vẫn là công nhận vai trò quan trọng của cái "Tôi" trong việc phân biệt các thể loại. Ngoài ra, nó còn buộc ta phải đặt những câu hỏi khác: Cái "Tôi" trong ký mà E.B. White và Edward Hoagland bàn đến, cũng như cái "Tôi" trong các loại văn bản tự sự khác có phải là cái "Tôi" thực của người viết hay không? Và cái "Tôi" trong truyện khác cái "Tôi" trong ký và các văn bản báo chí như thế nào?
  • Tiểu thuyết: Khoảng cách giữa khát vọng và khả năng thực tế

    24/10/2005Nguyễn HòaMở đầu Diễn đàn "tiểu thuyết Việt nam đang ở đâu", chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau đây của nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa...
  • xem toàn bộ