Văn chương ngày nay làm được gì?

08:34 CH @ Thứ Bảy - 08 Tháng Giêng, 2011
Đặt ra yêu cầu công việc cho văn chương trước “hiện thực đất nước hôm nay”, trước “sự kiện đang diễn ra” chính là yêu cầu nhà văn phải trở thành nhà báo, trong khi phương tiện tác nghiệp báo chí của nhà văn cùn nhụt hơn rất nhiều so với phương tiện tác nghiệp báo chí của nhà báo “thứ thiệt” trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay.

“Văn chương ngày nay còn có thể làm được gì?”. Khoan trả lời, mà hãy “ngần ngừ” một chút trước câu hỏi “cắc cớ” này, có thể nhiều người sẽ thấy ở trong đó, ngoài sự hoài nghi, còn thoáng một nỗi bi quan cho vận mệnh của văn chương, cho lý do thực sự mà nhờ đó văn chương trụ lại được trong dòng đời sống ngày hôm nay. Nỗi bi quan ấy không ngẫu nhiên nảy sinh theo kiểu nảy sinh một ý thích bất chợt. Nó có nguyên cớ của nó. Sự thui chột thói quen đọc sách, trong đó có sách văn chương, ở một bộ phận lớn độc giả tiềm năng - cái mà giới truyền thông Việt Nam ngày nay thường gọi là “sự khủng hoảng của văn hóa đọc” - cần phải được cắt nghĩa vượt qua và nhiều hơn một tình trạng “suy bại tinh thần xã hội” hay “học phong đình đốn” dễ dãi nào đó. Theo hướng ấy, một cách rốt ráo, có lẽ nên đưa ra một câu hỏi khác, đầy tính thực dụng: đọc tác phẩm văn chương để được cái gì?

Cách đây một thế kỷ, thậm chí chỉ nửa thế kỷ thôi, câu trả lời sẽ đến rất nhanh: để được biết nhiều hơn về thế giới này. Người trả lời có thể diễn giải như sau: Chúa nặn ra con người với tư cách là một sinh vật bất toàn, một sinh vật bị đóng khung trong cái bi kịch của sự giằng xé giữa hữu hạn và vô hạn. Nó sống ở đây, bây giờ, nhưng lại luôn thường trực niềm ham muốn được trải nghiệm đời sống của mình ở mọi nơi, mọi lúc. Chỉ có một cây cầu để đưa nó đi từ bờ hữu hạn sang tới miền vô hạn thôi, đó là văn chương. Đọc tác phẩm văn chương, con người được lên rừng, xuống biển, vào lòng đất, ra sa mạc, tới thảo nguyên, đang ở hiện tại bỗng trở về quá khứ rồi thoắt cái lại nhảy vọt đến tương lai. Trong những cuộc dịch chuyển tọa độ không gian - thời gian ấy, tri giác địa - lịch sử của người đọc được mở rộng, mà kiến văn về địa - nhân học, về địa - văn hóa của anh ta cũng trở nên dầy dặn thêm. Bởi anh ta được tiếp xúc với các cộng đồng người cùng phong tục tập quán và các thiết chế văn hóa xã hội của họ, anh ta được sống với các cuộc đời cá thể cùng bao niềm vui nỗi buồn, bao éo le khuất khúc, bao bi kịch hài kịch và những tấn kịch nhân sinh chưa được gọi tên khác. Biết được nhiều hơn về thế giới này cũng có nghĩa là biết được nhiều hơn về chính mình, biết được những khả năng cùng những giới hạn, những sức níu và những sức vươn nằm trong bản thân mình - một hạt bụi người trong thế giới. Tất cả những điều đó, người đọc có được là nhờ tác phẩm văn chương. Nhưng, trớ trêu thay, trong điều kiện của đời sống xã hội ngày nay, sức mạnh ấy của văn chương dường như đã không còn nguyên vẹn như trước; hay nói cách khác, sau câu khẳng định đã xuất hiện một vài câu hỏi nghi ngờ: duy nhất văn chương làm được điều đó chăng? Liệu có thể có những loại hình khác sẽ đảm nhận công việc với hiệu quả cao hơn, và bởi thế, chúng sẽ đẩy văn chương xuống “bàn hai”?

Có. Báo chí, truyền hình, điện ảnh đã và đang là những thế lực biến văn chương thành kẻ “ở chiếu dưới” trong việc giúp con người hiểu biết nhiều hơn về thế giới này. Chúng mang cái thế giới rộng lớn, đa chiều và dồn dập các sự kiện đến với con người nhanh hơn, cụ thể hơn, sống động hơn nhiều so với điều tác phẩm văn chương có thể đem lại. Chỉ cần một cái nhấp chuột hay một cái nhấn nút chuyển kênh, ngay lập tức ta đã có thể biết những chuyển động ở thì hiện tại (hoặc quá khứ rất gần) trong thế giới mà ta đang sống: bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ, chiến tranh ở Iraq, căng thẳng chính trị ở bán đảo Triều Tiên, sập hầm mỏ ở Chile, bão lụt ở Trung Quốc, nạn đói và dịch bệch ở Somali v.v... Sự lệch pha về thời gian giữa “sự kiện đang diễn ra” và “sự kiện đang được chứng kiến” là rất không đáng kể, và đó là điều mà tác phẩm văn chương không có cách gì giải quyết được. Hoặc giả, một cách chậm rãi hơn, nếu ta muốn biết về phong tục tập quán, đời sống xã hội, các thiết chế và giá trị văn hóa của một cộng đồng người nào đó ở một vùng đất nào đó trên bề mặt quả địa cầu này, rõ ràng là những chương trình truyền hình thực tế hoặc những bộ phim tài liệu khoa học sẽ thỏa mãn nhu cầu ấy tốt hơn nhiều so với một tác phẩm văn chương. (Cần phải mở ngoặc đơn để nói thêm một chút ở đây: chẳng cần so với truyền hình và điện ảnh, trong trường hợp này, một tác phẩm văn chương tốt nhất cũng không thể hơn được một ghi chép dân tộc học vào loại “cẩn thận”. Tôi không tin khi đọc một tác phẩm văn chương nào đó về đời sống của người Mường, tôi sẽ biết về người Mường nhiều hơn khi tôi đọc cuốn Người Mường ở Hòa Bình của Trần Từ, tức nhà dân tộc học Từ Chi. Tương tự như vậy, là người M’nông Gar trong Chúng tôi ăn rừng của G. Condominas, thổ dân châu Mỹ trong Nhiệt đới buồn của C. Levi Strauss). Cách đây không lâu, khi nhìn vào những thành tựu của nền văn học cách mạng Việt Nam, khi phải cắt nghĩa giá trị của một số tác phẩm, chúng ta thường nhấn mạnh đến khả năng thâm nhập hiện thực của tác giả, cái cách anh ta sống cùng hiện thực, khám phá nó, rút tỉa nó, để từ hiện thực ấy làm nên một hiện thực khác - chân thật hơn, sống động hơn trong cuốn sách của mình. Những tác phẩm viết về đời sống của người dân công giáo vùng duyên hải Bắc bộ của Nguyễn Khải dăm ba chục năm trước là ví dụ khá tốt cho câu chuyện này. Thời đó, khi mới ra đời, các tác phẩm loại này của Nguyễn Khải được đón nhận rất nồng nhiệt, mà một trong những lý do chủ yếu là chúng đã mở ra trước mắt người đọc cả một mảng đời sống phức tạp, có phong vị rất riêng, mảng đời sống mà lúc ấy không phải ai cũng dễ dàng có điều kiện thâm nhập và trải nghiệm. Một tác giả trẻ ở tạp chí Văn nghệ quân đội bây giờ - nhà văn Nguyễn Đình Tú - khi nói về người tiền bối của mình đã có nhận xét: lúc đó, nhà văn không chỉ là nhà văn, mà nhà văn còn gánh luôn công việc của nhà báo, tác phẩm của nhà văn là thông điệp nghệ thuật, và tác phẩm ấy cũng kiêm luôn chức năng của thông tin báo chí. Mấy chục năm trước là thế, còn hiện nay, khi báo chí đã phát triển mạnh đến vậy, lại được sự hỗ trợ tối đa của công nghệ hiện đại, điều hiển nhiên là nó sẽ vượt trên văn chương rất xa trong việc đem lại cho con người những hình ảnh nóng ấm, tươi rói và hết sức cụ thể về thế giới này.

Không phải là nhà văn đã hết việc (cũng có nghĩa là hết lý do để tồn tại, điều này sẽ nói sau), nhưng một cái nhìn khác đi về chức năng của văn chương theo cách như vậy là cần thiết, nhất là khi vài ba năm trở lại đây “bỗng dưng” ở ta lại rộ lên việc tổ chức thảo luận “văn học phản ánh hiện thực đất nước hôm nay”. Đã có hẳn mấy cuộc hội thảo, đại loại “Văn học với đề tài nông nghiệp, nông thôn”, “Văn học với doanh nhân” v.v... Một mặt, có thể xem điều đó như một nỗ lực nhận diện, đánh giá văn chương đương đại. Nhưng mặt khác - dễ nhận thấy hơn - động thái ấy chính là lời thúc giục, là sự yêu cầu người sáng tác văn chương phải lao mình vào những “dòng chảy lớn” của đất nước hôm nay, phải viết về nó, phải biến “cái văn học” thành nơi in đậm hình ảnh của “cái xã hội”. Có hai vấn đề cần phải/đáng được bình luận ở sự yêu cầu này. Thứ nhất, đang xuất hiện xu hướng coi văn chương như những tràng vỗ tay rộn rã trong các cuộc mít tinh, lễ động thổ, khai mạc, khai trương... mà nhà văn là người phải vỗ tay một khi anh đã chứng kiến, bất kể anh có cảm thấy đủ niềm hân hoan để làm điều đó hay không. Nông nghiệp, nông thôn ư? Việt Nam ta chẳng phải là đất nước mà nông nghiệp chiếm một vị trí tối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nông thôn phủ trên phần lớn diện tích lãnh thổ và trong mỗi người dân - dù là thị dân nhiều đời - đều sống một “người nhà quê” đó sao? Vậy tại sao nhà văn không viết về đề tài đó, nhất là khi nông thôn đang chuyển mình mạnh mẽ dưới sự tác động tích cực của những chương trình hành động lớn? Doanh nhân ư? Đó chẳng phải “một anh hùng của thời đại chúng ta”, một mẫu người mới, mẫu người mang lại sự giàu có cho quốc gia, bởi thế rất đáng biểu dương sao? Vậy vì cớ gì nhà văn chưa hăm hở viết về mẫu người này như trước đây đã từng hăm hở viết về các nhân vật công - nông - binh? Yêu cầu được luận chứng rất hợp lý, chỉ có một chi tiết dường như chưa được tính đến (hoặc cố tình bị bỏ qua): với tư cách người sáng tạo tự do, nhà văn cần được hoàn toàn tự do trong việc tiếp cận đề tài, và thực ra thì anh ta cũng chẳng “dại gì” không viết nếu đó là một đề tài hấp dẫn và người viết tự thấy bản thân mình có đủ năng lực để giải quyết nó. Thứ hai, đặt ra yêu cầu công việc cho văn chương trước “hiện thực đất nước hôm nay”, trước “sự kiện đang diễn ra” chính là yêu cầu nhà văn phải trở thành nhà báo, trong khi, như đã nói ở trên, phương tiện tác nghiệp báo chí của nhà văn cùn nhụt hơn rất nhiều so với phương tiện tác nghiệp báo chí của nhà báo “thứ thiệt” trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay. Nói cách khác, đó là cách tốt nhất để đưa nhà văn, đưa văn chương vào tuyệt lộ.

Vậy nhà văn đành quay lưng ngoảnh mặt trước “hiện thực đất nước hôm nay” chăng?

Tôi không mấy tin vào cái kịch bản buồn bã này. Dù thế nào đi chăng nữa, dù theo đường thẳng hay đường vòng, dù hữu ý hay vô ý, thế nào “hiện thực đất nước hôm nay” cũng in dấu vết và lưu vọng âm của nó trong sáng tác của các nhà văn đương đại. Ngay ở một cuốn tiểu thuyết tình rất sến như Phải lấy người như anh chẳng hạn, đọc kỹ, ta sẽ thấy có những vấn đề của cuộc sống đương đại, những vấn đề trong cách nghĩ và trong tình cảm của một bộ phận người trẻ tuổi hôm nay. Mặt khác, tôi tin rằng văn chương ngày nay, cũng như văn chương muôn đời trong mai hậu, không bao giờ hết việc để làm nếu nó nhắm đúng miền xác định của mình, cái miền mà báo chí chỉ có thể khoan thủng ở vùng ven. Đó là thân phận Con Người, tạo vật bất toàn trong bàn tay của Chúa, con người như là nguyên nhân và kết quả của các thiết chế xã hội, là sự bất mãn khôn nguôi trước hiện thực, con người với những giới hạn không thể vượt qua, với sự giằng xé thường trực giữa các ham muốn, với những nỗi đau có thật, có lời và không lời. Hoặc, mượn cách nói của Albert Camus (với một chút thay đổi): văn chương còn có thể làm được điều gì đó có ý nghĩa thực sự nếu nó bước vững trên con đường độc đạo, giữa hai bờ vực: một bên là thứ văn chương của những tràng vỗ tay, bên kia là thứ văn chương trưởng giả đầy những tình cảm xa hoa giả trá.
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Về tính vũ đoán trong viết, đọc, và thẩm thức văn chương

    09/01/2019Bùi Vĩnh PhúcThế giới là một văn bản. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những ký hiệu, và ký hiệu với trùng trùng lớp lớp nghĩa của chúng đang vây quanh con người mỗi ngày, hay đúng hơn, từng giây từng phút, đòi hỏi được giải mã, khám phá.
  • Lịch sử - văn hóa và sex trong văn chương

    26/11/2015Nguyễn HòaSự có mặt một cách bất thường của sex trong đời sống văn chương vài năm gần đây đã được lý giải qua những nguyên cớ khác nhau, nhưng tựu trung, những người tán thưởng đều vô tình (cố tình?) lẩn tránh việc còn cần phải xem xét sex từ các quy chiếu văn hóa...
  • Thân ốc với cọc không rêu hay là ảo ảnh văn chương sáo rỗng

    25/01/2015Nguyễn Chí HoanMột nhà phê bình nghệ thuật mới đây đã viết một cách chua chát rằng nghệ thuật ngày nay hình như không cao quí như người ta vẫn cho là thế, mà phần nhiều nó chỉ tạo ra những ảo ảnh và bằng cách đó nó tránh đụng chạm đến những vấn đề thực tế thực tại...
  • Gian nan chuyện văn chương lên sóng

    21/09/2010Hoài NamChúng ta đang sống trong thời kinh tế thị trường, thời đại mà bất kỳ sản phẩm nào do con người làm ra - dù đó là sản phẩm tinh thần hay sản phẩm vật chất - cũng đều có thể và cần phải trở thành thương phẩm. Người ta vẫn nói vậy, và điều đó hẳn phải có cái lý của nó.
  • Văn chương trẻ tăng tốc trong mơ hồ

    19/03/2010Lê Thiếu NhơnNhìn lại năm 2009, chợt nhận ra một điều tương đối kỳ lạ: Cuộc suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến mọi ngành, mọi nghề nhưng không hề ảnh hưởng đến hoạt động văn chương. Đặc biệt là văn chương trẻ, tác phẩm vẫn công bố rôm rả, tác giả vẫn đăng đàn hoan hỉ.
  • “Người đàn bà thép” của văn chương hậu hiện đại

    28/10/2009Khánh PhươngTri thức cũng như lan toả muôn vàn chiều kích khác của ngôn ngữ đặc thù, thì sáng tác văn chương theo khuynh hướng hậu hiện đại dường như còn được kỳ vọng hơn thế, tại lãnh địa vốn dĩ là suy tưởng và tự nhận thức của nó.
  • Văn chương tính dục - adua hay tất yếu

    18/03/2009Vũ HuyềnSự xuất hiện bất thường của sex trong văn học gần đây đã làm tốn không ít giấymực của báo chí và gây khá nhiều tranh cãi trong công chúng, khiến người không muốn quan tâm cũng phải quan tâm.
  • Cuộc sống càng hiện đại, văn chương càng cần thiết

    15/10/2008Phạm Quang TrungTừ lâu, người ta đã bắt đầu đo lường sự sung túc của con người và xã hội không chỉ bằng GDP (tổng thu nhập ròng quốc nội) và GNP (tổng sản phẩm ròng quốc dân) mà còn bằng và đặc biệt bằng BNB (hạnh phúc ròng quốc dân). Thật phù hợp với quy luật phát triển của con người và xã hội!
  • Văn chương Việt Nam "mất đáy"

    15/10/2008Nhà văn Nguyễn Việt HàNhững tay lưu manh, những cô gái điếm, con sen thằng ở, đám xích lô ba gác của mọi ngóc ngách đường phố đã hoàn toàn biến mất khỏi tiểu thuyết Việt.
  • Văn chương trải nghiệm đàn bà

    30/07/2008Ngô BenLessing được xem là biểu tượng của phong trào bình đẳng giới. Những trang viết của bà thấp thoáng những trải nghiệm từ cuộc sống riêng với 2 lần kết hôn rồi ly dị, có 3 đứa con…
  • Một năm văn chương và mấy bước đi “hụt hẫng”

    25/01/2008Nguyễn HòaNếu định tính văn chương năm 2007 từ góc nhìn của các giải thưởng vốn được công bố khá sớm thì tôi có thể nói ngay rằng năm qua văn chương nước Việt như đang bị... "mất mùa” cho dù Hội Nhà văn Việt Nam vẫn trao giải thưởng...
  • Một năm văn chương: nỗi lo và niềm hy vọng

    14/02/2007Phạm Xuân ThạchHãy nhìn vào chính cái đời sống văn chương ồn ào của một năm, cái gì đã làm nên những giá trị đích thực? Những bong bóng xà phòng được cổ vũ nhiệt tình bởi média hay những con người lặng lẽ tạo tác. Hình như dòng chảy mạnh mẽ nhất chính là dòng chảy âm thầm.
    Nó mang đến niềm hy vọng cho một năm mới.
  • Văn chương - văn học năm 2006, chuyển dịch trong sự “nhiễu loạn”?

    04/02/2007Nguyễn HòaTới năm 2006, với những sự kiện - hiện tượng phong phú và đa dạng của nó, tôi lại thấy văn chương - văn học nước nhà như đang phát lộ một vài dấu hiệu chuyển mình. Và vì thế, dường như đâu đó ở cuối con đường, đã le lói một niềm hy vọng?
  • Văn chương 2006 - một nồi canh hẹ

    03/02/2007Ngô Vĩnh BìnhTôi không nói văn chương năm 2006 là năm không có thành tựu: Có chứ, có Cánhđồng bất tậncủa Nguyễn Ngọc Tư, có những hoạt động "khuấy động phong trào" của Hội...Là thế nên tôi không muốn kết thúc bài báo nhỏ này như là một "vĩ thanh buồn" theo cách nói của một nhà báo khi nói về Giải thưởng năm nay của Hội. Nhưng có điều tôi không thể không nói khi nói về văn chương nước ta năm 2006, đó là năm văn chương rối như một nồi canh hẹ...
  • Mạng là một cách tồn tại mới của văn chương

    25/08/2006Thụ NhânVăn chương mạng, cũng như văn chương dưới mọi hình thái tồn tại khác của nó, sẽ phải đi qua các giai đoạn sơ khởi, trưởng thành, và phát triển. Những dễ dãi, non nớt ban đầu là có, tất nhiên, và rồi nó cũng sẽ qua, tất nhiên, khi văn chương mạng đã là một hình thái tồn tại với các quy luật đào thải và tiến hóa của văn chương...
  • Văn chương mạng và những ảo tưởng của người viết

    18/08/2006Nhược điểm của văn học mạng là sự chia sẻ không đến cùng với người đọc và mầm mống căn bệnh ảo tưởng của người viết...
  • Văn chương và Ngòi bút

    13/05/2006Phan Việt, GS. TS. Lê Ngọc TràVăn học luôn luôn cần có cái mới, nhất là văn học hôm nay, khi mà bản thân đời sống đã thay đổi rồi mà văn học hình như vẫn chưa thay đổi mấy. Cái quyết định sự đổi mới ấy vẫn là nhà văn. Mà nhà văn muốn làm được thì trước hết không phải là đòi tự do để được viết mà là phải tự do vớingòi bút của mình...
  • Hãy làm ra sản phẩm văn chương tốt

    20/01/2006Phan ViệtThường các nhà văn có hai cách cơ bản để thể hiện trách nhiệm của mình với thời cuộc. Cách thứ nhất là cách trực tiếp, không chỉ viết mà còn tích cực tham gia các phong trào chính trị, xã hội đến mức có người bị trục xuất khỏi tổ quốc. Cách thứ hai là gián tiếp dùng văn chương của mình để nói về những bất công trong xã hội, về những người bị thiệt thòi, vẽ ra cơ chế đàn áp thể xác và tinh thần con người, thách thức những điều kiện và niềm tin chung...
  • Văn chương 2005 - tín hiệu vui và “giấc mộng bất thành”

    19/01/2006Nguyễn Hòa (nhà phê bình văn học)Văn chương năm 2005 còn nhiều chuyện để bàn và một cá nhân khó lòng bao quát hết. Hướng đi mới có sớm được xác định hay không, chắc chắn đây không phải là công việc của một người hay một nhóm người, đấy là công việc của số đông.
  • Văn chương 2004 - oằn mình giữa "nhập nhòa" cũ - mới

    03/01/2006Nguyễn Hoà"Cái mới" đang là khát vọng với những chấm phá chưa định hình và "cái cũ" hàng ngày vẫn ám ảnh đâu đó trong sự vận hành của từng cây bút - đó là tình trạng mà đã mấy năm rồi, văn học Việt Nam đang cố gắng vượt qua để chuyển mình đổi mới. Văn học năm 2004 cũng vậy, nó "nhập nhòa" giữa sự ra đời của những tác phẩm, những sự kiện khiến người ta vừa có điều gì đó để hy vọng, vừa khiến người ta không khỏi lo âu...
  • Điểm qua văn chương nửa năm con gà

    30/12/2005Nguyễn Hòa..."lượn” qua các cửa hàng sách vẫn thấy bạt ngàn những cuốn mới toanh, xanh đỏ tím vàng, nhưng đọc qua sẽ không khỏi thất vọng vì phần lớn là sách tái bản, sách tuyển tập hoặc toàn tập và vô vàn sách dịch không hiểu có liên quan đến Công ước Berne?
  • Chân - thiện - mỹ: Mãi là đích hướng tới của văn chương

    17/11/2005Đinh Quang TốnTừ xưa đến nay, hướng tới chân - thiện - mỹ luôn là mục đích của văn chương. Bởi văn chương là một sản phẩm do con người tạo ra, mà con người thì khác muôn loài ở bản chất muốn vươn tới những điều tốt đẹp, nên văn chương luôn là một hoạt động vì con người, với khát vọng làm cho cuộc sống của con người ngày một tốt đẹp hơn...
  • xem toàn bộ