Triết học trong “thế giới phẳng”
Khi đưa ra vàluận giải một số quan niệm đang nhận được những ý kiến đánh giá, bình phẩm khác nhau về vị trí và vai trò của triết học trongkỷ nguyên toàn cầu của một số nhà triết họccó têntuổi trên diễn đàn triết họcquốc tế, như J.Habermas, S.P.Huntington, W.L.Mcbride, T.Friedman, E.Le Boucher... trong bài viết này, tác giảđã đưa ra những suy tư của mình về diện mạo của triết học trongkỷ nguyêntoàn cầu này.Đó là: Tại sao triếthọc, trong khi vẫncó đầyđủ uy tín của mình trên diễn đànquốc tế, lại kémđi vàocuộc sống đến thế. Một khi các nhà triết học không biết cách ngăn chặn cái ác, cái xấu thì khiđó, tiếngnói nhânđạo, những định hướng giá trị sángsuốt sẽ ra sao. Liệu triết học trongkỷ nguyên toàn cầucó đủ khôn khéo để nhắc nhởloài người tôn trọng những giá trị quýbáu của những bài họcđã từng phải trả giá cho quá khứ. Trong một “thế giới phẳng" (thuật ngữdo T.Friedman đưara), triết học sẽ mang diện mạo nào…?
Tháng 8/2003, tại diễn đàn danh tiếng nhất của triết học nhân loại - Đại hội triết học thế giới lần thứ XXI, Jurgen Habermas - nhà triết học cũng danh tiếng đến mức gần như bất cứ ai hiện đang làmtriết học trên thế giới đều biết tên tuổi, đã trình bày tham luận về những vấn đề nóng bỏng của luật pháp quốc tế. Không hề né tránh những gai góc chính trị, J.Habermas đã bàn đến những bài học đắt giá của quá khứ và khả năng định hướng của triết học đối với tương lai của luật pháp quốc tế. Viện dẫn I.Cantơ để thẳng thắn chỉ trích các thế lực coi thường luật pháp quốc tế, ông nói: "Luật pháp quốc tế còn có ý nghĩa gì nữa khi mà một siêu cường tự do và gây chiến khắp toàn cầu đem những luậnđiệu có tính chấtđạo đúccủa nó thay thế cho các tiến trình của luật phápquốc tế”.
Một trường hợp khác, có thể coi là trái ngược về mức độ ảnh hưởng tới dư luậnxã hội so với trường hợp Habermas vừa nêu - lý thuyết về sựđụng độ của các nền văn minhcủa
Chúng ta đều biết, sựđụng độ của các nền văn minh và việc thiết lập trật tự thế giớilà cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1996, nhưng quan điểm cốt lõi của nó thì đã được công bố trước đó ba năm, trên tờ Tạp chí Foreing Affairs,số 3 năm 1993 dưới tiêu đề Sự đụngđộ củacác nền văn minh:thông qua những kỳ thị tâm lý cộng đồng phức tạp, Huntington cố chứng minh rằng, ngày nay, kể từ sau chiến tranh lạnh, nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và là nguồn gốc của các xung đột sẽ là văn hoá. "Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai".
Trong số những đánh giá về Huntington, chúng tôi muốn dẫn ra một ý kiến mà theo chúng tôi, là điển hình cho cách nhìn tỉnh táo trước quan niệm về sựđụng độ của các nền văn minh- đánh giá của William L.Mcbride, Giáo sư Đại học Perdu, Mỹ, Tổng thư ký Liên đoàn quốc tế các hội triết học (FISP).
Công bằng mà nói, Iý thuyết về sự đụng độ của các nền văn minh có một số phân tích sắc sảo và xét trên câu chữ trong tác phẩm thì
Vấn đề đặt ra đối với vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu là ở chỗ, ngày nay, có thể có những thứ lý luận dung tục, sai lạc, tầm thường lại chiếm được vũ đài thông tin và định hướng dư luận theo những giá trị kém cỏi. Trong khi đó, có những tư tưởng sáng suốt, những triết lý lành mạnh, những giá trị cao đẹp lại không tìm được chỗ đứng trong đời sống tinh thần nhân loại. Trước đây, khi Internet chưa phổ biến, những lý luận tầm thường, những giá trị lệch lạc của tâm lý con người khó tìm được đồng minh và do vậy, chỉ có ảnh hưởng một cách cục bộ trong một số cá nhân hoặc trong một vài cộng đồng đơn lẻ nào đó. Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng đã đủ khả năng lôi kéo toàn bộ những thứ không bình thường của cư dân trên trái đất vào một "góc tối chung" của toàn nhân loại. Điều kiện đó là mảnh đất màu mỡ cho những lý thuyết dị dạng xuất hiện và được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng. Không loại trừ khả năng là, tớiđây, sẽcó những lý thuyết quái thai xuất hiện.
Nêu lúcđó các nhà triết học và nhữngđầu óc lành mạnh khác không biết cách ngăn chặn cái ác, cái xấu thì tiếng nói nhânđạo, những định hướng giá trị sángsuốt rấtcó thể sẽ rơi vào thiểusố và trở thành trò cười trước đámđông dung tục và thô lỗ.Mà thời nào cũng vậy, cái xấu, cái ác đường như bao giờ cũng tinh vi, thủ đoạn hơn còn cái đẹp, cái thiện thì lại thường ngờ nghệch, cả tin hơn.
Dĩ nhiên, trong lịch sử văn minh nhân loại cũng đã từng xuất hiện những tư tưởng không bình thường, thậm chí những lý luận sa đọa, tư tưởng Quốc xã Đức hồi đầu thế kỷ XX là một thí dụ. Nhưng ngày đó chưa có Internet và Multimedia, chưa có blog-online và nhạc hip-hop, chưa có HIV/AIDS và virus H5N5, chưa có chủ nghĩa khủng bố và sự tàn bạo kiểu Al Queda...nghĩa là chưa có sự hỗn loạn kiểu toàn cầu hóa - sự xáo trộn giá trị toàn cầu khi thế giới chỉ còn là một cái làng bé nhỏ (trong đó, theo hình dung của Thomas Friedman, Tây âu chỉ là một trại dưỡng lão, Mỹ Latinh là một khu phố vui nhộn, nơi ngày làmviệc mãi 10 giờ tối mới bắt đầu, Ả Rập là con hẻm tối tăm ít người dám dấn thân vào, còn châu Phi là con phố bị phong toả, nơi tuổi thọ giảm sút, những toà nhà mới đều là những phòng khám bệnh. Trong một không gian chật chội và bức bối như thế, ngày nay, hàng triệu người hàng ngày muốn giãi bày mọi đầu trên blog-online, từ triết lý nghiêm túc đến những tâm tư bệnh hoạn - Jim Chisholm, cố vấn của Hiệp hội báo chí thế giới (WAN) đã than phiền như vậy tại Hội thảo cấp cao của giới báo chí gồm hơn 60 quốc gia, tổ chức tại Athen, Hy Lạp hồi tháng 11/2005. Cũng tại đây, Eric Le Boueher, Tổng biên tập tờ Le Mondecòn nhận xét rằng, thanh niên bây giờ đọc sách báo không giống như bố mẹ chúng, nghĩa là rất có thể cách tiếp thu các giá trị triết học cũng đã khác trước, dù chỉ mớicách nhau có một thế hệ. Nếu bầu không khí tinh thần của thế kỷ XXI đúng là như thế thì vai trò của triết học đang đứng trước một thách thức lớn. Dự báo của
Chưa bao giờ như lúc này, tiếng nói triết học có trọng trách rất lớn nhưng lại thật khó tìm được vị trí đáng phải có của nó trong việc dẫn dắt dư luận xã hội. Những kinh nghiệm đắt giá của quá khứ dường như chưa được con người thực sự chú ý. Bài học về sự cuồng tín, cực đoan của tư tưởng Holocaust trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, bài học về sự không đánh giá đúng vai trò của ý thức dân tộc trong chiến tranh Việt Nam 1954 - 1975, bài học được Hội nghị thượng đỉnh trái đất Reo - 91 cảnh báo về sự lãng quên vai trò của tự nhiên trong các tham vọng phát triển kinh tế, bài học được UNE
"Động cơ của chủ nghĩa khủng bố là lãnh thổ điều này thì còn phải bàn. Song, "tình hình thế giới không đến nỗi quá xấu, nhưng thế giới đã xử lý sai về nó" thì hẳn là một ý tưởng không tồi. Triết học ngày nay có vai trò gì và nhà triết học đã trốn đi đâu nếu
Quả thực, W.
Vậy, trong kỷ nguyên toàn cầu, triết học sẽ có bộ mặt như thế nào? Theo quan sát của chúng tôi, bức tranh triết học những năm tới đây phải chăng sẽ tiếp tục định hình theo cách nó đã thể hiện hơn một thập niên qua: trong khi tiếng nói của các nhà triết học có danh tiếng và thường được đánh giá cao trên các Tạp chí triết học hay tại các hội nghị, hội thảo quốc tế (chẳng hạn, Jurgen Habermas, Peter Kemp, Tomonobu Imamichi, Edgar Mong, Michei Vadee, Jacques Derrida...) không ảnh hưởng nhiều đến công chúng ngoài giới triết học, thì tiếng nói của các nhà lý luận kiểu như Samuel Huntington, Franeis Fukuyama, Alvin Tofler… lại có ảnh hưởng mạnh hơn đáng kể trong nhiều tầng lớp xã hội, từ các chính khách có trọng trách lớn đến sinh viên tại các Trường Đại học?
Có thể
Ngày nay, những suy tư triết học của những người không làm triết học, kiểu như
Tình huống của triết học trong thế giới ngày nay gần giống như tình huống trong câu chuyện ngụ ngôn về nhà thông thái và anh lái đò: trên con sông nước chảy xiết với những đợt sóng dữ dằn, khi biết anh lái đò ngốc nghếch về triết học, nhà thông thái bèn cất lời khuyên: nếu không biết triết họclà gì,coi như anhđã mất nửacuộc đời.Những tưởng anh láiđò đau khổ vì sự thất học của mình, nhưng không, anh ta vẫn yêu đời mà chọc lại nhà triết học: nếu khôngbiết bơi, có thể ngài sẽ mất cảcuộc đời(khi cơn sóng toàn cầu hoá ập đến?).
Phải chăng cuộc sống vẫn đi về phía trước với tất cả sự vô tư của nó, còn nhà triết học thì không hiếm khi lại bi quan hơn hoặc ảo tưởng hơn về vai trò và vị thế của mình? Vẫn biết rằng, nếu thiếu hụt về triết học, người ta sẽ phải trả giá. Nhưng, trong kỷ nguyên toàn cầu mà ảo tưởng về vị thế của triết học thì cũng nguy hiểm không kém.
Nếu trong kỷ nguyên toàn cầu, thế giới ít nhiều đã "phẳng” hơn, theo đúng hình dung của Thomas Friedman, thì triết học chắc cũng không thể"tròn" như trướcđược nữa.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường