Triết học trong “thế giới phẳng”

09:10 CH @ Thứ Hai - 23 Tháng Bảy, 2007

Khi đưa ra vàluận giải một số quan niệm đang nhận được những ý kiến đánh giá, bình phẩm khác nhau về vị trí và vai trò của triết học trongkỷ nguyên toàn cầu của một số nhà triết họccó têntuổi trên diễn đàn triết họcquốc tế, như J.Habermas, S.P.Huntington, W.L.Mcbride, T.Friedman, E.Le Boucher... trong bài viết này, tác giảđã đưa ra những suy tư của mình về diện mạo của triết học trongkỷ nguyêntoàn cầu này.Đó là: Tại sao triếthọc, trong khi vẫncó đầyđủ uy tín của mình trên diễn đànquốc tế, lại kémđi vàocuộc sống đến thế. Một khi các nhà triết học không biết cách ngăn chặn cái ác, cái xấu thì khiđó, tiếngnói nhânđạo, những định hướng giá trị sángsuốt sẽ ra sao. Liệu triết học trongkỷ nguyên toàn cầucó đủ khôn khéo để nhắc nhởloài người tôn trọng những giá trị quýbáu của những bài họcđã từng phải trả giá cho quá khứ. Trong một “thế giới phẳng" (thuật ngữdo T.Friedman đưara), triết học sẽ mang diện mạo nào…?

Tháng 8/2003, tại diễn đàn danh tiếng nhất của triết học nhân loại - Đại hội triết học thế giới lần thứ XXI, Jurgen Habermas - nhà triết học cũng danh tiếng đến mức gần như bất cứ ai hiện đang làmtriết học trên thế giới đều biết tên tuổi, đã trình bày tham luận về những vấn đề nóng bỏng của luật pháp quốc tế. Không hề né tránh những gai góc chính trị, J.Habermas đã bàn đến những bài học đắt giá của quá khứ và khả năng định hướng của triết học đối với tương lai của luật pháp quốc tế. Viện dẫn I.Cantơ để thẳng thắn chỉ trích các thế lực coi thường luật pháp quốc tế, ông nói: "Luật pháp quốc tế còn có ý nghĩa gì nữa khi mà một siêu cường tự do và gây chiến khắp toàn cầu đem những luậnđiệu có tính chấtđạo đúccủa nó thay thế cho các tiến trình của luật phápquốc tế”.

NơiHabermas lên tiếng là Istanbul, ThổNhĩKỳ, sát nách Iraq, địa danh có thể gọi là nhức nhối của thế giới đầu thế kỷ XXI. Những luận điệu có tính chất đạo đức mà Habermas nói đến là những thứ biện hộ cho các chuẩn mực đạo đức độc đoán và vụ lợi. Những tưởng tiếng nói của Habermas sẽ làmcho nhân loại, mà trước hết là các chính khách có vai trò dẫn dắt bàn cờ chính trị thế giới phải lên tiếng hoặc có phản ứng. Nhưng không, sự phản tư triết học được coi là sâu sắc ấy cũng chỉ để bản thân giới triết học tự chiêm nghiệm với nhau. Tiếng vang của những mệnh đề triết học đã Habermas đưa ra, trên thực tế không làmrung động thế giới hơn những tiếng nói khác. Triết học, trong trường hợp này, không thể nói là không đủ uy tín, thế nhưng câu hỏi đặt ra vẫn là, tại sao nó lại kém đi vào cuộc sống đến thế.

Một trường hợp khác, có thể coi là trái ngược về mức độ ảnh hưởng tới dư luậnxã hội so với trường hợp Habermas vừa nêu - lý thuyết về sựđụng độ của các nền văn minhcủa SamuelP.Huntington. Đây là một mô hình lý thuyết đầy tham vọng lý giải và dự báo sự biến động chính trị - xã hội của thế giới từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Mô hình này, như một số nhà lý luận đánh giá, có nhiều điểm không đáng phải bàn luận về phương diện triết học: không ít nhà triết học Nga, Trung Quốc, Đài Loan, Châu Âu và các nước phương Tây khác đã chỉ ra những lập luận khiên cưỡng và tâm lý tiêu cực trong cách hiểu của Huntington về văn hóa và trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh. Nhưng điều trớ trêu là, đông đảo dân chúng Mỹ và cả ở những nước khác chẳng những không tính đến lờiphê phán về sự bất hợp lý của quan niệm về sự đụngđộ của các nền văn minh,mà ngược lại, còn tỏ ra ngưỡng mộ Huntington một cách thời thượng và tin rằng, sự kiện 11/9/2001 là một xác nhận cho dự báo chủ quan của Huntington. Với trường hợp này, vai trò của lý luận triết học trong kỷ nguyên toàn cầu có nhiều điểm đáng phải bàn luận.

Chúng ta đều biết, sựđụng độ của các nền văn minh và việc thiết lập trật tự thế giớilà cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1996, nhưng quan điểm cốt lõi của nó thì đã được công bố trước đó ba năm, trên tờ Tạp chí Foreing Affairs,số 3 năm 1993 dưới tiêu đề Sự đụngđộ củacác nền văn minh:thông qua những kỳ thị tâm lý cộng đồng phức tạp, Huntington cố chứng minh rằng, ngày nay, kể từ sau chiến tranh lạnh, nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và là nguồn gốc của các xung đột sẽ là văn hoá. "Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai". TheoHuntington, hiện nhân loại có khoảng bảy hoặc tám nền văn minh lớn: phương Tây, Không giáo, Nhật Bản, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Slave Đông chính giáo, Mỹ latinh và có thể cả châu Phi nữa. "Những xung đột quan trọng nhất trong tương laisẽ nổ ra dọc theo các đường ranh giới phân cách các nền văn minh này".

Trong số những đánh giá về Huntington, chúng tôi muốn dẫn ra một ý kiến mà theo chúng tôi, là điển hình cho cách nhìn tỉnh táo trước quan niệm về sựđụng độ của các nền văn minh- đánh giá của William L.Mcbride, Giáo sư Đại học Perdu, Mỹ, Tổng thư ký Liên đoàn quốc tế các hội triết học (FISP). TạiHội thảo Toàncầu hóa và sựđối thoại giữa các nền văn hóaở Mátxcơva, tổ chức vào tháng 6/2002, WilliamL.Mcbride đã trực diện phê phán cách cảm thụ thế giới của Huntington là "dung tục và kém tinh tế”. Ông nhận xét: "Rất tiếc là Huntington, một nhà tư tưởng theo nghĩa xấu của từ này, như người ta đã nói, lạicó ảnh hưởng lớn như thế đến lối suy nghĩ của các nhà ngoại giao và những người tham gia vào tương tác toàn cầu. Tác phẩm của ông ta là thí dụ điển hình cho sự thu hút của lối suy nghĩ tầm thường, nhưng bề ngoài có vẻ như sáng sủa".

Công bằng mà nói, Iý thuyết về sự đụng độ của các nền văn minh có một số phân tích sắc sảo và xét trên câu chữ trong tác phẩm thì Huntington không chủ tâm kích động các nền văn hoá hay văn minh xung đột với nhau. Nhưng điều đáng ngại ở Hunlington chính là quan điểm triết học của ông. Trong cuốn sách viết năm 1996, Huntington đã vô tình để lộ ra giá trị định hướng đối với toàn bộ suy nghĩ của mình mà ông thích gọi bằng một thuật ngữ tiếng Đức là Weltanschauung,nghĩa là thế giới quan về văn minh, vũ trụ và các mối quan hệ cua con người.Khi nói về chủ đề cuốn sách đó là văn hóa, bản sắc văn hóa mà ở mức độ rộng nhất là bản sắc văn minh", Huntington viết: "Một Weltanschauung ảm đạm cho kỷ nguyên hiện đại này được thể hiện sinh động bằng triết lý của nhân vật theo chủ nghĩa dân tộc người Venesie trong tiểu thuyết Vũng biển chếtcủa Michael Dibdin: Người ta chẳngbao giờcó bạn mà lại khôngcó kẻ thù, người ta ghét cái không giống mình, nghĩa là người tayêu cái giống mình. Đây chỉ là những chân lýcũ mà chúng ta đangcố gắng khám phá lại sau một thế kỷ loanh quanh lảng tránh".

Huntington không ngớt lời ca ngợi quan điểm này và rất vô tư khi coi đó là thế giới quan chủ đạo cho tư tưởng của mình. Có cảm giác giật mình khi đông đảo người đọc mê cái triết lý đầy cực đoan này. “Người ta ghét cái không giống mình, nghĩa là người ta yêu cái giống mình". Có đúng là nhân loại vẫn thường cư xử với nhau như vậy hay không? Thật khó tin.Lập luận của Huntington đã chọc vào tâm lý đố kỵ của con người như những lời xúc xiểm. Dĩ nhiên, một vài cá nhân cụ thể thì có thể cư xử với nhau như vậy. Thậm chí, có thể có những chính khách nào đó vì đầu óc cuồng tín hay không bình thường mà cũng cư xử như vậy. Nhưng chẳng lẽ các dân tộc và toàn nhân loại lại cũng thiếu sáng suốt như thế. Thật điên rồ nếu sự đụng độ thực tế của các nền văn minh lại bắt đầu từ đây (Ai dám chắc rằng những kẻ cướp máy bay trên bầu trời nước Mỹ ngày 11/9/2001 lại chưa đọc sách của Huntington?).

Vấn đề đặt ra đối với vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu là ở chỗ, ngày nay, có thể có những thứ lý luận dung tục, sai lạc, tầm thường lại chiếm được vũ đài thông tin và định hướng dư luận theo những giá trị kém cỏi. Trong khi đó, có những tư tưởng sáng suốt, những triết lý lành mạnh, những giá trị cao đẹp lại không tìm được chỗ đứng trong đời sống tinh thần nhân loại. Trước đây, khi Internet chưa phổ biến, những lý luận tầm thường, những giá trị lệch lạc của tâm lý con người khó tìm được đồng minh và do vậy, chỉ có ảnh hưởng một cách cục bộ trong một số cá nhân hoặc trong một vài cộng đồng đơn lẻ nào đó. Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng đã đủ khả năng lôi kéo toàn bộ những thứ không bình thường của cư dân trên trái đất vào một "góc tối chung" của toàn nhân loại. Điều kiện đó là mảnh đất màu mỡ cho những lý thuyết dị dạng xuất hiện và được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng. Không loại trừ khả năng là, tớiđây, sẽcó những lý thuyết quái thai xuất hiện.

Nêu lúcđó các nhà triết học và nhữngđầu óc lành mạnh khác không biết cách ngăn chặn cái ác, cái xấu thì tiếng nói nhânđạo, những định hướng giá trị sángsuốt rấtcó thể sẽ rơi vào thiểusố và trở thành trò cười trước đámđông dung tục và thô lỗ.Mà thời nào cũng vậy, cái xấu, cái ác đường như bao giờ cũng tinh vi, thủ đoạn hơn còn cái đẹp, cái thiện thì lại thường ngờ nghệch, cả tin hơn.

Dĩ nhiên, trong lịch sử văn minh nhân loại cũng đã từng xuất hiện những tư tưởng không bình thường, thậm chí những lý luận sa đọa, tư tưởng Quốc xã Đức hồi đầu thế kỷ XX là một thí dụ. Nhưng ngày đó chưa có Internet và Multimedia, chưa có blog-online và nhạc hip-hop, chưa có HIV/AIDS và virus H5N5, chưa có chủ nghĩa khủng bố và sự tàn bạo kiểu Al Queda...nghĩa là chưa có sự hỗn loạn kiểu toàn cầu hóa - sự xáo trộn giá trị toàn cầu khi thế giới chỉ còn là một cái làng bé nhỏ (trong đó, theo hình dung của Thomas Friedman, Tây âu chỉ là một trại dưỡng lão, Mỹ Latinh là một khu phố vui nhộn, nơi ngày làmviệc mãi 10 giờ tối mới bắt đầu, Ả Rập là con hẻm tối tăm ít người dám dấn thân vào, còn châu Phi là con phố bị phong toả, nơi tuổi thọ giảm sút, những toà nhà mới đều là những phòng khám bệnh. Trong một không gian chật chội và bức bối như thế, ngày nay, hàng triệu người hàng ngày muốn giãi bày mọi đầu trên blog-online, từ triết lý nghiêm túc đến những tâm tư bệnh hoạn - Jim Chisholm, cố vấn của Hiệp hội báo chí thế giới (WAN) đã than phiền như vậy tại Hội thảo cấp cao của giới báo chí gồm hơn 60 quốc gia, tổ chức tại Athen, Hy Lạp hồi tháng 11/2005. Cũng tại đây, Eric Le Boueher, Tổng biên tập tờ Le Mondecòn nhận xét rằng, thanh niên bây giờ đọc sách báo không giống như bố mẹ chúng, nghĩa là rất có thể cách tiếp thu các giá trị triết học cũng đã khác trước, dù chỉ mớicách nhau có một thế hệ. Nếu bầu không khí tinh thần của thế kỷ XXI đúng là như thế thì vai trò của triết học đang đứng trước một thách thức lớn. Dự báo của LucienSeve về một ngày mà triết học trở thành thổ ngữ của một nhóm thổ dân sống trong một vùng ngoại vi hẻo lánh của xã hội phải chăng đã đến rồi?

Chưa bao giờ như lúc này, tiếng nói triết học có trọng trách rất lớn nhưng lại thật khó tìm được vị trí đáng phải có của nó trong việc dẫn dắt dư luận xã hội. Những kinh nghiệm đắt giá của quá khứ dường như chưa được con người thực sự chú ý. Bài học về sự cuồng tín, cực đoan của tư tưởng Holocaust trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, bài học về sự không đánh giá đúng vai trò của ý thức dân tộc trong chiến tranh Việt Nam 1954 - 1975, bài học được Hội nghị thượng đỉnh trái đất Reo - 91 cảnh báo về sự lãng quên vai trò của tự nhiên trong các tham vọng phát triển kinh tế, bài học được UNESCO nhắc nhở về tinh thần duy khoa học (seientism) thái quá đến mức lãng quên vai trò của văn hóa và con người trong các thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ trước… - đáng ra phải là "sự trừng phạt thấm đòn" để con người học được từ đó nhiều hơn. Rất tiếc, triết học trongkỷ nguyên toàn cầu, hoá ra, vẫn khôngđủ khôn khéo để nhắc nhởloài người tôn trọng giátrị quý báu của những bài họcđã từng phải trả giá trong quá khứ và tỉnh táo với những tham vọng của mình.Nói như Habermas, triết học đã không đủ làm cho "các tiến trình của luật pháp quốc tế có hiệu lục và điều đó khiến cho "những luận điệu có tính chất đạo đức" vẫn có ảnh hưởng quá lớn so với vai trò thực của nó trong thế kỷ XXI. Nên chú ý rằng, những tín điều đạo đức mà Habermas nói tới là những tín điều đạo đức của "một siêu cường gây chiến khắp toàn cầu”, nghĩa là thứ đạo đức được quan niệm, sử dụng và định hướng hành vi theo những cách hoàn toàn chủ quan. Thật đáng suy nghĩ khi Mahathir Mohamad, nguyên Thủ tướng Malaysia, tại Hội nghị Châu Á - Thái Bình Dương, Kham Lumpur, ngày 13/01/2003, đã không ngần ngại phê phán cách mà nhân loại đang hành xử với chủ nghĩa khủng bố.ông nói: "Động cơ của chủ nghĩa khủng bố chắc chắn không phải là tôn giáo, mà rất có thể là lãnh thổ. Tình hình thế giới hiện không quá xấu, nhưng thế giớiđã xử lý sai tình hình".

"Động cơ của chủ nghĩa khủng bố là lãnh thổ điều này thì còn phải bàn. Song, "tình hình thế giới không đến nỗi quá xấu, nhưng thế giới đã xử lý sai về nó" thì hẳn là một ý tưởng không tồi. Triết học ngày nay có vai trò gì và nhà triết học đã trốn đi đâu nếu MahathirMohamad nói đúng?

Quả thực, W. Mcbride đã không quá khi cho rằng, trong thời đại toàn cầu hóa, các nhà tư tưởng sáng suất và vị tha có lẽ vì quá khiêm tốn nên đã không lên tiếng. Người có tiếng nói khả dĩ làm thay đổi được thế giới như Habermas thì lại "duy tâm thái quá đến mức đề ra một thứ đạo đức vừa không thể có được, lại vừa đi quá xa khỏi thế giới hiện thực sang thế giới trừu tượng”. Những lý thuyết "dung tục", những quyết sách vĩ mô vụ lợi trắng trợn, những cách hành xử thiếu tư duy triết học sáng suốt...vì thế có cơ hội để nảy nở.

Vậy, trong kỷ nguyên toàn cầu, triết học sẽ có bộ mặt như thế nào? Theo quan sát của chúng tôi, bức tranh triết học những năm tới đây phải chăng sẽ tiếp tục định hình theo cách nó đã thể hiện hơn một thập niên qua: trong khi tiếng nói của các nhà triết học có danh tiếng và thường được đánh giá cao trên các Tạp chí triết học hay tại các hội nghị, hội thảo quốc tế (chẳng hạn, Jurgen Habermas, Peter Kemp, Tomonobu Imamichi, Edgar Mong, Michei Vadee, Jacques Derrida...) không ảnh hưởng nhiều đến công chúng ngoài giới triết học, thì tiếng nói của các nhà lý luận kiểu như Samuel Huntington, Franeis Fukuyama, Alvin Tofler… lại có ảnh hưởng mạnh hơn đáng kể trong nhiều tầng lớp xã hội, từ các chính khách có trọng trách lớn đến sinh viên tại các Trường Đại học?

Có thể SamuelHuntington, FrancisFukuyama, AlvinTofler...là những nhà lý luận tài ba. Song, dẫu vậy cũng vẫn cần phải xem xét nghiêm túc vai trò của dòng các sản phẩm lý luận có chất triết học nhưng lại không trình bày tư tưởng theo kiểu hàn lâm. Với các tác phẩm củaS Huntington, F.Fukuyama, A.Tofler (chẳng hạn, Sự đụngđộ của các nền văn minh và việc thiết lập trật tự thế giới, Sự cáo chungcủa lịch sử và con người cuối cùng, Làn sóng thứba, Cú sóc tươnglai..., rõ ràng, sẽ là thiếu hụt và hẹp hòi nếu loại bỏ chúng ra khỏi phạm vi những tác phẩm triết học. Gọi đó là triết học, không có gì sai. Nhưng nếu gọi lốitiếp cận của các tác phẩm đó không phải là tiếp cận triết học, mà là tiếp cận liên ngành hay tiếp cận đa ngành thì cũng vẫn đúng. Vấn đề là ở chỗ, những tác phẩm đó được đông đảo người đọc đón nhận.

Ngày nay, những suy tư triết học của những người không làm triết học, kiểu như ThomasFriedman (nhà báo, người đã đoạt giải Pulitzer, nổi tiếng với các tác phẩm về toàn cầu hóa như Chiếc xe Lexus và cây Ôliu, Thế giớiphẳng) đôi khi lại gợi mở ra những vấn đề đích thực triết học. "Thế giới phẳng” là thuật ngữ do Friedman sáng tạo ra với hàm ý là, ngày nay, toàn cầu hoá đã làm cho đời sống nhân loại không còn "lập thể" hay "stereo" như trước kia nữa. Tuy bị chê là hàm hồ, song thuật ngữ này lại khá đắt để chỉ thế giới toàn cầu hóa. Trong thế giới này, giảng đường của các Trường Đại học sẽ là mảnh đất sống còn của những dòng triết học hàn lâm - những tư tưởng kinh điển của tất cả các trường phải có uy tín, còn mạng toàn cầu là nơi trôi nổi của hầu hết những suy tư triết học thứ cấp. Nhưng càng ngày, những tư tưởng thực sự có giá trị về phương diện triết học đã xuất hiện càng nhiều trên mạng.

Tình huống của triết học trong thế giới ngày nay gần giống như tình huống trong câu chuyện ngụ ngôn về nhà thông thái và anh lái đò: trên con sông nước chảy xiết với những đợt sóng dữ dằn, khi biết anh lái đò ngốc nghếch về triết học, nhà thông thái bèn cất lời khuyên: nếu không biết triết họclà gì,coi như anhđã mất nửacuộc đời.Những tưởng anh láiđò đau khổ vì sự thất học của mình, nhưng không, anh ta vẫn yêu đời mà chọc lại nhà triết học: nếu khôngbiết bơi, có thể ngài sẽ mất cảcuộc đời(khi cơn sóng toàn cầu hoá ập đến?).

Phải chăng cuộc sống vẫn đi về phía trước với tất cả sự vô tư của nó, còn nhà triết học thì không hiếm khi lại bi quan hơn hoặc ảo tưởng hơn về vai trò và vị thế của mình? Vẫn biết rằng, nếu thiếu hụt về triết học, người ta sẽ phải trả giá. Nhưng, trong kỷ nguyên toàn cầu mà ảo tưởng về vị thế của triết học thì cũng nguy hiểm không kém.

Nếu trong kỷ nguyên toàn cầu, thế giới ít nhiều đã "phẳng” hơn, theo đúng hình dung của Thomas Friedman, thì triết học chắc cũng không thể"tròn" như trướcđược nữa.

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á

    25/12/2017Hồ Sĩ QuýTriết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông...
  • Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?

    24/06/2016GS. TS. Lê Hữu Tầng...đề cập đến hai thái cực trái ngược nhau khi đánh giá vai trò của triết học trong cuộc sống: Thái cực coi thường vai rò của triết học và thái cực ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học, cho rằng chỉ cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc sống... <
  • Tiến tới một triết học về hợp tác vì sự giải phóng con người

    22/09/2015Nguyễn Trần BạtVượt thời gian là một khả năng tuyệt vời của nhận thức. Khả năng vượt thời gian cho phép người ta có thể truy đuổi, suy ngẫm về tương lai, hay ít nhất là chuẩn bị tiền đề tâm lý để đi đến với nó. Và ngay cả những người hôm nay đã tìm ra công nghệ để đi đến tương lai nếu trong quá trình tiến đến tương lai tiếp theo, tương lai cấp hai, vẫn khư khư giữ lấy bản đồ án của tương lai thứ nhất thì cũng sẽ trở thành kẻ bảo thủ trong giai đoạn thứ hai này. Cơ sở của công nghệ đi đến tương lai là tư duy không ngừng, lựa chọn không ngừng và loại bỏ không ngừng...
  • “Trà dư tửu hậu” và triết học

    05/05/2015Võ Trần Bình PhươngQuanh năm quay cuồng với chuyện làm ăn, bàn chuyện kinh tế, chính trị, thời sự; cuối năm có lẽ là dịp để mỗi chúng ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời... Thử một lần không bàn về chuyện kinh tế, TBKTSG đã “trà dư tửu hậu” với nhà nghiên cứu triết học phương Tây Bùi Văn Nam Sơn...
  • Mối quan hệ giữa triết học và bức tranh vật lý học về thế giới

    11/01/2015TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá LinhMặc dù việc xây dựng bức tranh khoa học tự nhiên về thế giới là công việc của các nhà khoa học tự nhiên, nhưng bức tranh khoa học tự nhiên về thế giới không thể được xây dựng thuần túy từ các thành tựu của các ngành khoa học tự nhiên được. Bức tranh khoa học tự nhiên về thế giới là một công trình sáng tạo khoa học vượt ra ngoài khuôn khổ của bản thân khoa học tự nhiên...
  • Khoa học cơ bản thế kỷ XX đối với một số vấn đề lớn của Triết học

    11/11/2014Lê Văn GiạngNhằm giới thiệu với bạn đọc một cách nhìn tương đối toàn diện về những thành tựu của khoa học cơ bản thế kỷ XX, mà đặc biệt là mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học cơ bản và triết học trong thế kỷ này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Khoa học cơ bản thế kỷ XX đối với một số vấn đề lớn của triết học của tác giả Lê Văn Giạng...
  • Liệu triết học có phải là khoa học không?

    28/04/2010“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.
  • Triết học và văn hóa

    15/05/2007GS. Trần Quân TuyểnNghiên cứu vấn đề "Triết học và văn hoá" còn có ý nghĩa thực tiễn cấp bách ở TrungQuốc. Khoảng 2 thập kỷ lại đây, trong giới nghiên cứu Trung Quốc xuất hiện khuynh hướng phủ nhận phong trào văn hoá "NgũTứ".
  • Triết học là gì?

    16/03/2007Đặng Phùng QuânKhi thông tin sự cáo chung, triết học cũng mang ý nghĩa đặt định nhiệm vụ của tư tưởng của thời đại mới. Có thật sự một thời đại đã chấm dứt và một thời đại mới bắt đầu?
  • Ý thức toàn cầu và vai trò của triết học trong việc xây dựng ý thức toàn cầu

    01/01/1900Trần Nguyên ViệtToàn cầu hoá là mộtxu thế tấtyếu, kháchquan, nó vừacó mặt tíchcực, vừacó mặt tiêu cực đặt racho tất cảcác quốc gia, dân tộccả những vận hội lẫn những thách thức. Việc nhận thức những vấnđề toàn cầuđòi hỏi phảicó ý thức toàncầu. Ý thức toàncầu, theo tác giả,có các đặc trưng:
    1. Phản ánhuy thế của các giá trị toàn nhân loại,
    2. Nó phải được chỉnh lý một cách căn bản trong sự tự ý thức của từng dân tộc cũng nhưcủa từng cá nhân,
    3. Có tínhkhoa học cao, để xây dựng ý thức toàncầu, triết họcđóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò này thể hiện ở hai chức năng cơ bản củanó: chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
  • Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây

    11/11/2006Bài này chia sẻ những điểm khác biệt về triết học, triết lý Đông - Tây, từ đó quyết định xem cân đối kiến thức sao cho hợp lý, hiệu quả cho cuộc sống...
  • Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới khách quan

    27/10/2006Vũ Gia HiềnĐể tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải hiểu thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Thế giới quanh ta là gì?
  • Bàn thêm về vấn đề cơ bản của triết học

    07/10/2006Vũ TìnhGiải quyết vấnđề cơ bản của triết họclà một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc tìm hiểu triết học nói chung và tìm hiểu một học thuyết triết học nào đó nói riêng...
  • Khoa học hiện đại và triết học

    24/09/2006Nguyễn Văn DũngThế giới ngày nay hiện ra như một tấm thảm rộng mênh mông làm bằng nhiều mảnh bị tung toé ra, không sao ghép lại một cáchkhoa họcđược,- điều không giốngnhư người ta nghĩ trước đây. Đầu thế kỷ chúng ta, khoa học đi chậm lại vì đường đi trước mắt không còn tỏ tường. Triết học đã làmcho con đường đó sáng lên. Khoa học đã nhìn thấy gốc của mình ở siêu hình học và từ đó nó vươn vai đứng lên mạnh mẽ như ngày hôm nay...
  • Về vai trò của triết học trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay

    31/08/2006GS. TS. Nguyễn Trọng ChuẩnTrong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúpcho con người vượt qua nhữngkhó khăn, thử thách, giải thoátcon người khỏi những tháchđố và vướng mắc củacuộc sống, đáp ứngnhu cầu thường nhật vàlâu dàicủa nhân loại không chỉ là kinh tế,kỹ thuật hiện đại vàcông nghệcao, mà còn là triếthọc. Triếthọc giúpcho con người tìm ra lời giải không chỉ cho những tháchđố muôn thuở, màcòn cho những vấnđề hoàn toàn mớido quá trình toàn cầu hoá đặt ra...
  • “Mềm hóa” triết học

    13/07/2006N.LCông ty Văn hóa & truyền thông Nhã Nam cùng Nxb Văn học vừa cho ra mắt bộ sách Danh tác triết học,gồm một số tác phẩm của Nietzsche, Schopenhaue... nhưng thay vì những tuyển tập dày cộp, lại là những cuốn mỏng, bìa mềm, dễ đọc, dễ biểu vớivăn phong lưu loát, chỉn chu. Thể thao & Văn hóatrao đổi với ông Nguyễn Nhật Anh (Giám đốc Công ty)...
  • Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây

    07/07/2006Nguyên Ngọc (Dịch & giới thiệu)Viết công trình này Francois Jullien qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng TrungHoa cổ dại (là cơ sở để nghiên cứu minh triếtphương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây)...
  • Triết học phương Tây hiện đại

    02/07/2006Lưu Phóng Đồng (dịch giả: Lê Khánh Trường)Đây là quyển giáo trình triết học hướng đến thế kỷ 21 trên cơ sở lấy thái độ thực sự cầu thị của chủ nghĩa Marx mà đánh giá lại toàn bộ triết học phương Tây hiện đại và mối quan hệ của nó với triết học Mácxít. Tác giả sẽ lần lượt trình bày với bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này một dòng triết học với nhiều trào lưu, trường phái, chủ nghĩa gắn với nhiều triết gia nổi tiếng của triết học phương Tây hiện đại. Chính sự phong phú và đa dạng đó đã tạo cho triết học học phương Tây hiện đại một bức tranh nhiều màu sắc...
  • Toàn cầu hóa một số vấn đề triết học đặt ra ở Châu Á - Thái Bình Dương hiện nay

    17/05/2006PGS. TS. Trần Đức CườngToàn cầu hoá là một hiện tượng phức tạp, có tác động sâu rộng đến mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có thái độ như thế nào đối với vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc, phải giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, chủ quyền dân tộc, tính tự quyết dân tộc, phân tầng xã hội, giá trị người và đời sống con người... như thế nào. Đặc biệt, phải làm gì để chống lại sự huỷ hoại về mặt giá trị của toàn cầu hoá...?
  • Về vai trò của triết học trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta

    05/05/2006PTS. Phạm Văn ĐứcCũng như mọi lí luận, triết học không chỉ làm nhiệm vụ lý giải những vấn đề của thế giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng, mà còn trên cơ sở của sự lí giải ấy, nó trở thành cái định hướng đúng đắn cho con người trong hành động...
  • Vấn đề kế thừa và phát triển trong lịch sử triết học

    20/03/2006Phạm Văn ĐứcKế thừa và phát triển là quy luật chung của cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Quy luật đó cùng tồn tại một cách khách quan trong lịch sử triết học. Nhưng cũng như mọi quy luật không phải ngay từ đầu mà phải đến một giai đoạn nhất định của lịch sử quy luật đó mới được phát hiện.
  • Đổi mới triết học trong quá trình đổi mới hoạt động lý luận ở nước ta

    13/03/2006GS. Trần NhâmĐổi mới hoạt động lý luận, trước tiên là đổi mới tư duy triết học, đổi mới phương pháp học tập, giảng dạy và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin với ba bộ phận cấu thành của nó...
  • Triết học phương Tây hiện đại đi về đâu?

    04/03/2006Bửu Ý...triết học khó lòng chiếm một chỗ nhỏ bé trong hoạt động tri thức của con người thời đại. Nó còn được nhắc nhở phần nào chăng qua các phương tiện truyền thông, hay tối thiểu còn có cơ may thu mình lại trên vài trang sách?
  • Những chủ đề cơ bản của Triết học phương Tây

    30/11/2005Phạm Minh LăngCác nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác còn đánh giá rất cao những công trình, những ý tưởng của những người đi trước. Engels luôn kêu gọi chúng ta hãy nghiên cứu và nắm vững lịch sử triết học của thế giới, cái kho tàng đầy ắp những giá trị tư tương của nhân loại....
  • Triết học với sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

    19/11/2005Bùi Quang MinhĐể góp phần tìm hiểu những vấn đề triết học của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đồng thời tham gia vào việc triển khai nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng vào cuộc sống ; chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn sách...
  • Những vấn đề triết học của Điều khiển học

    13/11/2005Sự phát triển của điều khiển học chứng tỏ rằng các lĩnh vực tổng hợp của các khoa học là những điểm hết sức quan trọng của quá trình hình thành nên cái quan trọng của quá trình hình thành nên cái quan trọng có tính chất cơ bản và cái mới có tính chất nguyên tắc trong các tri thức về thế giới.
  • Triết học và cuộc sống

    07/09/2005Lê ThiTrước đây, C.Mác đã nói: "Vũ khí vật chất của triết học là giai cấp vô sản cũng giống như vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản là triết học" (1). Vấn đề đặt ra cho chúng ta ngày nay là làm sao cho triết học Mác - Lênin thật sự trở thành vũ khí tinh thần của nhân dân...
  • Triết học và Thế giới quan (World outlook) là gì?

    27/04/2003Thế giới quan chính là biểu hiện của cách nhìn bao quát (bức tranh) đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngòai, cả con người và cả mối quan hệ của người – thế giới (tức là mối quan hệ của người đối với thế giới). Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nan cho hành động của con người...
  • Cùng triết học vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

    27/04/2003Bùi Quang Minh ([email protected])Để tiến vào tương lai, chắc chắn chúng ta không chỉ dựa vào khoa học hiện đại, vào kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, mà còn nhất thiết cần phải dựa vào tư duy khoa học và tư duy lý luận ở trình độ cao và hiện đại...
  • xem toàn bộ