Triết học là gì?
Xác định
Trong quyển sách Triết họcvà Văn chương xuất bản cách đây hơn 20 năm (1974), tôi đã viết:
“Mục tiêu không phải là triệt hủy, nhưng là giải giới kiến tạo những khái niệm nền tảng của siêu hình học về hữu thể, ý nghĩa, hiện diện đã giới hạn logos, lý trí vào một loại “vòng rào". Chính vòng rào này đã tạo ra thành kiến kỳ thị tư tưởng Đông Tây, gây nên phản ứng “ bế quan tỏa cảng" trong học thuật, xây dựng thần học hữu thể và đạo học thần bí. Cẩn phải phá hủy vòng rào này. Chính trong vị thế khó khăn đó, người ta lầm tưởng là có sự phá sản nhưng thực sự giới hạn không phải là cáo
Triết học không bị vượt, nhưng phải giải giới kiến tạo triết học, thiếtđịnh hệ thống cơ cấu những khái niệm triết lý một cách trung thực, khám phá vùng “bên ngoài" cái vòng rào đã áp đặt mình trong lịch sử. Đó là những công trình khảo sát lịch sử triết học của
Giải giới kiến tạo hay hủy tạo mượn từ khái niệm deconstructioncủa J. Derridađã trở thành một khái niệm phổ biến trong giới phê bình văn chương Mỹ trong khoảng một thập niên sau, trước khi trở thành một vấn đề triết lý bắt nguồn từ khái niệm Destruktrơn(hủy triệt) của Heidegger trong dự thảo chương vượt siêu hình học Tây phương. Cả hai khái niệm hủy tạovà hay diệtđấu dẫn tới vấn đề cáo
Vấn đề cáo
Như vậy có thể đặt vấn đề cáo
Trong những chiều hướng
Triết học đã hoàn tất vì "triết học là siêu hình học".
Triết học là "sở cứ " vì toàn bộ lịch sử triết học đã tập đại thành trong khả năng tột cùng của nó.
Khởi sự của nền văn minh thế giới xây dựng trên tu duy
Khi thông tin sự cáo
Đặt vấn đề cơ sở (Grund - Grundlagen) của một thời đại như
Ngày nay với vấn đề đặt lại vị thế của chủ thể, phê phán tha hóa của tự thức lý luận về tín hiệu, vai trò của ngôn ngữ bình thường đã chỉ ra những quan tâm mới trong tư tưởng của thời đại. Trên một bình điện nào đó, có thể nói tư tưởng không còn xây dựng trên cơ sở của nửa thập kỷ đầu nữa mà đang ở vào tình trạng khủng hoảng của thời quá độ.
Có thể xác định thời quá độ? Nếu như những Nietzsche, Kierkegaard và Marx chấm dứt thế kỷ của Hegel trước khi bước chuyển tiếp cho những trào lưu hiện tượng luận, phân tâm học và hiện sinh xác định thế kỷ của chúng ta, thì với sự phê phán chủ nghĩa Marx, hậu hiện đại, hậu cấu trúc luận, sự gặp gỡ giữa triết học lục địa truyền thống và triết học Anh - Mỹ (ít ra là sự đối đầu giữa triết học phân tích, chủ nghĩa thực dụng và thuyết hủy tạo) có thể là dấu mốc của thời quá độ.
Có thể xác định thời quá độ vì chuyển tiếp của thế kỷ, không hẳn
Trong mê cung của tư tưởng, có người đã tự hỏi: phải chăng cách thế ngụy thức hai mặt đang thống trị? Hoặc có thể còn đặt vấn đề triết lý khi triết học đã chết?
Đặt vấn đề triết lý ngay trên những tiền đề về cái chết của triết học có phải là mâu thuẫn nội tại, hay không thể tận được những chân nguyên lý vì đã không tìm thấy trong quá khứ? Có thể mượn lới của
Vấn đề căn nguyên của cơ sở tư tưởng
Vấn đề triết lý đầu tiên là hỏi ngay chính bản thân triết học là gì? Một triết gia Đức như
Deleuze và Guattari, hai nhà tư tưởng Pháp đã viết
Deleuze and Guattari:
Trong văn chương mới của Nga, một nhà văn trẻ, Sasha Sokolov, đã lấy đề từ một phiên khúc của Pushkin đặt tên cho tiểu thuyết của ông Mezhdu sobakoi i volkom.Giữa chóvà sói, chto nazavana pora mezh volka I sobakiicâu thơ trong
Lúc một ngày đã xong và người ta có thể ngồi nhâm nhi tán gẫu.
Đó cũng là lúc người chăn bầy không thể phân biệt được giữa chó gác và sói rừng.
Lúc tranh sáng tranh tối mơ hỗ giữa mộng và thực.
Những biến cố trong tiểu thuyết của Sokolov diễn ra trong cảnh tranh sáng tranh tối mông muội đó.
Không phải tình cờ quyển sách của Gilles Deleuze và
Nhưng vấn đề "Triết học là gì?" chỉ đặt ra khi tuổi già đã đến. Đó không phải là một ẩn dụ, mà là một tự vấn, giống như soi mình tronggương. Triết lý quả thực có thể nhìn qua tấm gượng soi. Khi viết quyển sách này, Deleuze đã ở vào tuổi 66 và Guattari đã 61.
Hỏi triết họclà gì?có lẽ chỉ xảy đến vào lúc xế bóng, khi người ta không còn gì để hỏi nữa.
Hỏi cũng có nghĩa là tự vấn sau khi đã bước vào lãnh địa triết học, để hỏi triết học là gì với những điều đã làm suốt một đời.
Hỏi chỉ có nghĩa là tự vấn suốt một hành trạng già nua cằn cỗi của lịch sử triết họcnhưng cũng có thể là ngay chính hành trạng của triết gia. Hỏi vì không tin triết học đã đạt tới cứu cánh, nghĩa là đã cáo
Người la không thể tưởng tượng viết một quyển sách mang tên Triết họclà gìkhi người ta còn trẻ. (Một nhà danh họa như Tumer vào tuổi già đã có thể đưa hội họa vào con đường đơn độc không cần tranh biện, một tác phẩm như La vie de Rancécủa Chateaubriand ở tuổi già đã khẳng định quyền năng của chữ viết và mở đầu văn chương mới, trong triết học Kritik der Urteilskraftcủa Kant cũng là một tác phẩm viết vào lúc tuổi già, ở đó những quan năng của tinh thần vượt khỏi nhũng giới hạn). Đây là lúc người ta có thể đặt vấn đề tìm hiểu triết học là gì và câu trảlời phải chờ tới một thời điềm, mộtcơ hội, những hoàn cảnh, những quang cảnh và nhânvật, những điều kiện và những ẩnsố của câuhỏi.
Hỏi và trả lời như thế nào? Deleuze và Guattari đã trả lời trong một cách thế ẩn mật như tiểu thuyết của Sokolov là người ta có thể đặt vấn đề "giữa những thân hữu” như một tâm sự hay tin cậy, hoặc có thể đối diện với kẻ nghịch như một thách đố, và cùng lúc chờ đợi vào cái thời điểm giữa chó và sói lúc chạng vạng tranh tối và sáng lúc con người bất chấp ngay chính thân hữu?
Inter canem et lupumdầu sao câu trả lời cũng đã có ở đó, không thay đổi: triết học là nghệ thuật hình thành, phát kiến, chế tác những khái niệm.
Những khái niệm Deleuze, Guattan xác định cần những nhân vật khái niệm.
Thân hữulà một nhân vật như vậy bởi vì người ta có thể nói nó chính là chứng nhân của căn nguyên Hy Lạp trong triết học philosophie. Khái niệm gắn liền với nhân vật, thân hữu bởi chỉ ở triết học Hy Lạp như Kojève nhận định người Hy Lạp đã chôn vùi hiền thánh và thay thế bằng triết gia, những thân hữu của minh trí đi tìm minh trí nhưng không chiếm hữu. Có thể nói rõ hơn là thánh hiền đến từ phương Đông, nhưng thánh hiền có lẽ suy nghĩ bằng Hình tượng còn triết gia phát kiến và suy nghĩ bằng Khái niệm.
Thân hữu ở đây không phải chỉ là làm bạn với triết gia như Platon, mà làm bạn với minh trí, với điều chân hay thật.Thân hữu như vậy là một hiện diện nội tại trong tư duy, một điều kiện khả hữu của chính tư duy, một phạm trù sống, một sinh động siêu nghiệm. Triết gia chính là thân hữu của khái niệm, lũy tiến
Sáng tạo những khái niệm mời, đó là đối tượng của triết học như
Mọi khái niệm, như Deleuze và Guattari nói rõ, có những cấu thành, và khái niệm được xác định bằng những cấu thành này. Ngay cả khái niệm đầu tiên, nghĩa là khái niệm mà một tariết học khởi đầu cũng có nhiều cấu thành vì không có gì hiển nhiên là triết học phải có một khởi đầu, bởi xác định một khởi đầu cũng đi từ một quan điểm hay một nguyên do. Chẳng hạn những triết gia khác biệt như
Mọi khái niệm đều có một lịch sử, chẳng hạn như khái niệm tha nhân dầu lịch sử này diễn ra theo đường ngoằn ngoèo, một chuyển biến vì quan hệ với khái niệm khác trên cùng một bình diện, một khởi sinh dị biệt nghĩa là sắp xếp những cấu thành qua những khu vực lân cận, một vô thể mặc dầu nó được hiện thực trong những vật thể (khái niệm nói lên diễn biến, không phải yếu tính hay sự vật, như Deleuze đã nói đến khái niệm lektoncủa triết học Khắc kỷ trong tác phẩm Logiquedu Sens).
Khái niệm vừa tương đối với những cấu thành riêng của nó cũng như với những khái niệm khác, trên bình diện nó giới hạn và những vấn đề phải giải quyết vừa tuyệt đối vì khai triển sự tụ hội, giữ sở cứ và những điều kiện ấn định cho vấn đề. Cho nên triết gia không ngừng quyền biến những khái niệm, ví như Leibniz đã phát biểu: "Tôi tưởng vào đến bến, nhưng lại bị thẩy ra giữa biển khơi". Khái niệm không mang tính biện luận, và triết học không là một hình thành biện luận vì nó không mang những tiền đề giống như các khoa học. Sự khác biệt giữa triết học và các khoa học là ở đó. Deleuze và Guattari đã mượn khái niệm agôntrong từ ngữ Hy Lạp để chỉ sự đối nghịch: giống như biện chứng mà Platon xác định trong khái niệm amphisbetesis.Cho nên triết học không phải là chiêm ngưỡng vì những chiêm ngưỡng là chính những sự vật được nhìn trong sáng tạo ra những khái niệm, không phải phản trạng vì người ta không cần đến triết học để phản ảnh bất kỳ điều gì (chẳng hạn nhà toán học không cẩn nại tới triết học để phản ảnh toán học), cũng không thường trụ trong thông giao, vì thông giao tương ứng với những tư kiến chứ không phải những khái niệm.
Trong tương tranh đối nghịch với triết học ngày nay là những khoa học nhân văn, nhất là khoa xã hội học hay mọi bộ môn thông giao như thông tin học, thị trường học, quảng cáo, vẽ kiểu... Triết học cũng khởi sự với những câu, nhưng trong khi khoa học rút ra những viễn cảnh, nghệ thuật rút ra những tri thức và giác thức thì triết học rút ra những khái niệm.
Những khái niệm triết học như Deleuze, Guattari nhận định chỉ là những toàn mảnh không thể tự điều chỉnh mà phải có một tương ứng của bình diện nội tại. Triết học mang hai bộ diện bổ túc cho nhau, đó là sáng tạo ra những khái niệm và vạch ra một bình diện. Hai bộ diện này phân định rõ, ví như nếu triết học khởi sự với sự sáng tạo khái niệm thì bình diện nội tại phải coi như tiễn triết học. Điều này có thể thấy rõ nơi mỗi triết gia vì bình diện nội tại là một lĩnh hội phi khái niệm, chẳng hạn nơi Descartes là một lĩnh hội chủ quan và tiềm ẩn được giả định bởi cogito như khái niệm đầu tiên, ở Heidegger là một lĩnh hội tiễn hữu luận của Hữu thể. Nói khác đi, triết học đã phải giả định một cái gì là phi triết không phải tiền hiện mà có lẽ ở ngay trong lòng triết học (tôi sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau). Như đã nói ở trên, triết học bao gồm sáng tạo những khái niệm là khởi đầu của triết học, nhưng bình diện nội tại cấu thành lãnh địa tuyệt đối của triết học). Chính trong bình diện nội tại trong thời hiện đại, người ta "muốn nghĩ siêu nghiệm ngay trong nội tại và chính nơi nội tại người ta đạt tới sự đoạn tuyệt" biểu hiện ba loại Phổ quát là chiêm ngưỡng, phản trạng và thông giao của ba thời đại triết học là ý tượng luận, Phê phán luận và Hiện tượng luận không xa rời lịch sử của một huyễn tưởng triền miên. Xác định bình điện nội tại không phải siêu nghiệm, đó là khởi sự những triết gia thứ nhất, đối nghịch với hiền thánh, đó là lý do tại sao Deleuze gọi Spinoza là cự phách của mọi triết gia vì có lẽ Spinoza là người duy nhất không qua một thỏa hiệp nào với siêu nghiệm, và tại sao Deleuze đã chọn lựa những triết gia nội tại như phái Khắc kỷ, Spinoza, Bergson, Nietzsche.
Triết học như vậy tọa thị trên nền Đất, ờ đó thời gian của triết học là một thời gian địa tầngtrước và sau chỉ là một trật tự lớp lớp chồng chất lên nhau: triết học là chuyển biến, không phải lịch sử, nó là sự cộng hiện nhũng bình diện, không phải sự kế tiếp những hệ thống.
Mọi người đều có khả năng tư duy, nhưng ngoài hai yếu tố khái niệm và bình diện nội tại côn một yếu tố cơ bản nữa là những nhân vật khái niệm. Lấy trường hợp Descartes để trình bày:
Có mộtđiều gì ngoài cogito được chế ra và ảnh tượng giảđịnh của tư tưởng? Thực sự có một cáigì huyền nhiệm hiện ra đôi lúc hay xuất hiện có vẻ hiện hữulờ mờ, chen giữa khái niệm và bình diệntiền niệm, đi từ cái nọ qua cái kia. Đó chính là Kẻ Ngốc chính hắn xưngTôi, chính hắn tung ra cogito, nhưng cũng chính hắnđề ra nhữngtiền đề chủ quan hay vạch ra bình diện. Kẻ ngốc chính là nhàtư tưởng tư riêng đối lậpvới vị giáosư công khai (nhà kính viện): nhàgiáo thì không ngừng đưa đến nhữngkhái niệm để giảng dạy (người- là con vật cólý trí) trongkhi nhà tưtưởng tư riêng hình thành mộtkhái niệm với những sức mạnh tiên thiên mỗi người cóquyền đắc thủ (tôi tư duy). Đó là một loại nhân vật rất kỳlạ, muốn nghĩ và nghĩ cho chính mình, bằng “ánh sáng tự nhiên". Kẻ ngốclà một nhân vật khái niệm.
Nhân vật khái niệm kẻ ngốc có thể thấy trong tư tưởng Nicolas deCuse, Eudoxe trong triết học Descartes, trong tác phẩm của Dostoievsh. Sự khác biệt giữa kẻ ngốc xưa và nay ở chỗ kẻ ngốc xưa muốn cái thật còn kẻ ngốc nay muốn tạo cái phi lý là quyền năng tối thượng của tư tưởng. Những nhân vật khái niệm như Socrate của Platon, Dionysos của Nietzsche là chủ thể hay chuyển biến của một triết học.
Triết học trình ra ba yếu tố. nội tạiđể vê ra bình diện tiền triết, cố chấpđể phát kiến và tạo sự sống cho những nhân vật phò triết, cốt cáchđể sáng tạo ra những khái niệm triết. Những nét khác biệt như cảm thụ, quan hệ, năng động, duy pháp, hiện sinh là những cá tính ở những nhân vật khái niệm trong các nguồn tư tưởng.
Tư tưởng không phải là dây liên hệ giữa chủ thể và khách thể, nhưng trong quan hệ của lãnh địa và đất. Người ta có thể thấy một ý tưởng về một cách mạng kiểu Copemic nơi Kant không phải là những phạm trù chủ thể và khách thể mà là đặt tư tưởng trực tiếp quan hệ với đất, ở Husserl cũng có yêu cầu đất như một trực giác nguyên ủy cho tư tưởng.
Đấtlà ngưỡng của nguyên thuỷ mở vào Nguyên sử xác thân.Cho nên không những có một lịchsử triết học, côncó một địa chí triết học.
Deleuze, Guattari đã dành Chương IV để nói về địa chí triết học. Sau Husserl và Merleau-ponty, Deleuze và Guattari đã chú trọng đến vị trí của Đất khi nói đến những vận động giải cát cứ và tái cát cứ là những quan hệ của nội tại và siêu nghiệm, của Quốc gia và Đô thị, của phương Đông và phương Tây.
Dẫn lời của Jean-pierre Faye, Deleuze và Guattari chỉ ra là những triết gia như những người khách lạ đến từ phương Đông, nhưng tại sao lại chọn Hy Lạp làm môi trường triết học, vì ở đây phát triển những điều kiện như một xã tính thuần túy làm môi trường nội tại, một lạc thú quần hội cấu thành thân hữu và một thống khoái về tư kiến. Tư tưởng nhằm đưa ra một môi trường nội tại để thu hút đất, cho nên có sự khác biệt giữa minh trí và tôn giáo với triết học vì một đằng tư duy bằng những hình tượng như lục hào Dịch, pháp luân An, thánh tượng Kitô... một đằng tư duy bằng khái niệm.
Hình tượng cần những phóng chiếu đến từ siêu nghiệm còn khái niệm tiếp cận và liên hệ ở bình diện nội tại. Khi một tư tưởng như tư tưởng Thiên chúa giáo muốn có những khái niệm, nó phải qua con đường vô thần, chủ nghĩa vô thần không là một thảm kịch, mà là sự thanh thản của triết gia và đắc thủ của triết học. Có thể nói đến một triết học Trung Hoa, Ân Độ, Do Thái, Hồi Giáo với điều kiện tư duy trên một bình diện nội tại. Triết học sở dĩ tồn tại ở Hy Lạp vì nó gắn liễn với thường hằng hơn là tất yếu, cảnh giới hơn là nguồn gốc, chuyển biến hơn là lịch sử. Mối liên lạc của triết học hiện đại với chủ nghĩa tư bản cũng giống như mối liên lạc của triết học cổ đại và Hy Lạp. Chính ở đó có thể thấy viễn cảnh của triết học hiện đại vì nó không còn là thân hữu của chủ nghĩa tư bản nữa, như triết học cổ đại không gắn bó với đô thị Hy Lạp:
Triết học đưa tới tuyệt đối sự giải cát cứ tương đối của tu bản, qua bình diện nội tại như một vận động của vô hạn và tiêu diệt nó như một giới hạn bên trong, làm cho nó quay lại chống nó,để dẫn đến mộtmiền đất mới một dân tộc mới.
Tiếp nối những nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản trong quan hệ triết học hiện đại qua tác phẩm L'anti-oedipe,Deleuze và Guattari nhận ra mối quan hệ cấu tạo giữa triết học và phi triết học trong chuyển biến kép, ở đó "triết gia phải trở nên một người không phải là triết gia, để phi triết học có thể trở thành đất và dân của triết học".
█Heidegger
Was ist das- me Philosophie?là một bài giảng tại Cérisy-la-Salle ở
1. Học thuyết về giản đỗ và thời gian của Kant như một giai đoạn tiên đế về vấn đề thời tính.
2. Cơ sở hữu thể luận trong lý luận “cigito sum" của Descartes và lý do tại sao hữu thế luận thời Trung cổ đã nhường bước cho vấn đề "res cogitans".
3. Tiểu luận về thời gian của Aristote như đưa ra một con đường phân biệt nền tảng hiện tượng và những giới hạn của hữu thể luận cổ đại.
Dự tính đã bị bỏ hẳn vì như Heidegger viết trong lời tựa lần in thứ bảy là phải viết mới lại phần nhất nếu như thêm phần hai. Quả thực, những vấn đề trong phân đoạn 1 có thể được đề cập trong Kant und das Problem der Metaphysik,luận vế thời gian của Aristote thấy trong Die Grundprobleme der Phanomenologie,và vấn đế cogito sum của Descartes được bàn đến trong giảng khóa sơ kỳ năm 1940 tại Freiburg, in lại trong tập IV bộ Nietzsche. Cũng như đối với những trường hợp của nhiễu nhà tư tưởng lớn, người ta thường phân chia tác phẩm của Heidegger ra làm hai thời kỳ: Heidegger I và II Tôi không thảo luận vấn đề này ở đây, nhưng khi đề cập đến tập sách Was ist das-die Philosophie?không thể không đối chiếu với Sein und Zeitvà ở đó sẽ thấy lộ ra những điểm tiếp nối và phân cách giữa một Heidegger/ hiện tượng luận và một Heidegger/hậu hiện tượng luận.
Mở đầu bài giảng Triết họclà gì?Heidegger khẳng định chỉ có thể thảo luận vấn đề này khi đưa vào một con đường việc chúng ta đầu tiên phải làm là đưa câu hỏi vào một con đường định hướng rô để chúng ta không bị lúng túng quanh khái niệm triết học. Nhưng làm thế nào chúng ta tìm ra được một con đường để chúng ta có thể xác định vấn đề của chúng ta một cách tin cậy? Con đường mà tôi chỉ ra đây nằm ngay trước mặt chúng ta. Và chỉ.vì nó là con đường gần tầm tay nhất lại khó tìm thấy... Từ ngữ "triết học" được nói đến ở đây bằng tiếng Hy Lạp. Từ ngữ như từ Huy Lạp là một con đường. Từ Hy Lạp philosophialà một con đường chúng ta phải đi.
Vấn đề ở đây là nghevà ngôn ngữ.Nghe như thế nào và ngôn ngữ nào?
J. Derrida trong một bài viết dành cho hội thảo quốc tế tại Đại học Loyola ở Chicago tháng chín năm 1989 kỷ niệm 1.000 năm ngày sinh của Heidegger, đã phát hiện từ một câu trong Sein und Zeit: "als Horen der stimme des Freundes, den iedes Dasein bei sich tragt”) để bàn về vấn đề mà Derrida gọi là Philopolemology.Cũng trong bài viết này, bất ngờ Derrida dã đặt chủ điểm vào tác phẩm Was ist das-die Philosophie?Heidegger đã thuyết trình tại Pháp 34 năm trước.
Những chủ điểm nêu ra như nghe- thân hữu- philein- đấu tranhlà những vấn đề đã bàn đến .ở phần trên qua tác phẩm của Deleuze-guattari.
Câu văn trích dẫn trên trích ra từ chương 34 nhan đề: Dasein und Rede. Die Sprache(Hiện hữu và Diễn từ. Ngôn ngữ).
Nghelà một vấn đề triết lý khác hẳn với vấn đề Nhìn(mà Martm lay đặt để trong triết học hiện đại. X. Downcast Eyescủa M. Jay). Nghe là một khả năng hiện sinh thuộc về nói vời chính mình như Heidegger đã xác định trong Sein und Zeit:
Nghe cấu tạo sự khai mở công chính và nguyên ủy của hiện hữu cho tiềm năng hiện hữu nhất". Nghe cấu thành của diễn từ và hiện hữu nghevì hiểu được.
Khả năng khai mở của hiện hữu để nghe tiếng nói của kẻ khác như thân hữu thì tuyệt đối có tính cách nguyên ủy vì tiếng nói của thân hữu không ở tự tại nhưng ở trong tôi, nhưng cũng không ở trong tôi như một hiện hữu vì hiện hữu không là "ngã", mà cũng không là "tôi". Cho nên mặc dầu tiếng nói không ở trong nó, hiện hữu cưu mang thân hữu khi cưu mang tiếng nói.
Derrida đã nhận ra những liên hệ giữa những chủ đề như Nghe(Horen, Horigkeit), Diễn từ, Ngôn ngữnói đến trong tác phẩm Sein und Zeitvới những chủ đề của Wasist das- me Philosophie?qua cái tai:
Xác định triết học (philosophia) như nghe tiếng nói và theo tiếng gọi của hữu thể, khả năng tương ngôn và đồng thuận.
Xác định con đường giải đáp vấn đề triết học không phải là đoạn tuyệt với lịch sửmà thu tập lịch sử trong ý nghĩa hủy triệt.
Vấn đề tìm hiểu philosophiacó thể đặt trở ngược về với từ philosophơsbắt nguồn từ Héraclite. Phileinhiểu theo nghĩa ho - molegein,có nghĩa là phát ngôn như thể Logos, tương ứng với Logos. Tương ngôn như vậy thì đông thuận với Sophon. Lý giải theo Hérachte: En Pantamọi hiện thể thống nhất trong Hữu, điều đó có nghĩa là Hữu tập hợp mọi hiện thể như thể Hữu, Hữu chính là Tập hợp - logos.
Heidegger viết: nghe một điều như vậy xem ra có vẻ tầm thường với cái tai của chúng ta, nếu không muốn nói là xúc phạm vì không ai cần phải bận tâm với điều mới hữu thuộc về Hữu. Tuy nhiên điều đó chính là khỏi sự ngạc nhiên, ít ra là đối với người Hy Lạp. Khác biệt giữa những người đi tìm Sophon với những nhà ngụy biện cũng là ở chỗ lý luận ngụy biện sẵn sàng đưa mọi giải đáp có sẵn trên thị trường. Giải đáp hay tương ứng với triết học, đạt tới Tương ngôn này cần phải mở sẵn tai nghe những gì triết học nói với chúng ta.Triết học hiểu theo nghĩa Hy Lạp philosophia.Triết học trên đường về Hữu của hiện thể, nhưng bước đường vào triết học không phải chỉ ở Platon hay Aristote như thể tất yếu của một quá trình biện chứng.
Giải đáp cho câu hỏi: triết học là gì? chỉ hiển nhiên khi đi vào con đường đối thoại với triết gia, nghĩa là nói với họ về những điều họ nói. Triết lý là ngôn ngữ của dối thoại.Đối thoại ở đây là đưa tư duy của chúng ta trên con đường gặp gỡ triết học. Đáp ứng như vậy cùng nghĩa với tương ngôn,Heidegger phân biệt:
Giải đáp không phảilà một biểu ngôn mà chínhlà tương ngôn đáp ứng hữu của hiện thể.
Con đường giải đápvấn đề của chúng ta không phải là đoạn tuyệt với lịch sử nhưng là một thu tập và biến đổi những gì diễn ra.
Một thu tập lịch sử như vậyđã mang ý nghĩa "Hủy triệt"mô tả ở chương VI trong Sein und Zeit.Đến đây Derrida rất đắc ý với điều ông muốn tìm gặp: hủy tạo hay đúng hơn "hủy triệt” cũng là một kinh nghiệm thu tập truyền thung, khi dẫn lại đoạn văn quan trọng đó:
Từ “Destruktion" nhằm chỉ ra một thu tập lịch sử như vậy. Ý nghĩa của từ nàyđã minh định trongSein und Zeit. Hủy triệtkhông mangý nghĩa tàn phá, nhưng hủy tạo,mang đi, không nói là trục xuất mà là dờichỗ, để sang một bên những biểu ngôn lịch sửvề lịchsử triếthọc. Hủy triệtcó nghĩa là mở rộng tầm taiđể có thề tự do truyền đạt đến chúng ta những gì đa diễn ra trong truyền thốngvề hữu của hiện thề.
Derrida cũng nhận định thấy là Heidegger kết án sự ngơ điếc của cái tai chung thông thường của con người hiện đại vì không nghe thấy sự khác biệt hữu thể, cũng không nghe thấy logos như thể tập hợp, vì không nghe nên cũng mù lòa trước vẻ huy hoàng của hữu thể tập hợp và chói sáng đã làm người Hy Lạp ngạc nhiên:
Đề nghe thấy được tin truyền này, chúng ta phải đi tới tương ngônnghĩa là nghe thấy tiếng nói hay tiếng gọi thông truyền.Triết học là tương ngôn từ hữu của hiện thể, hữu như vậy xác định ngôn từ theo cách nào để ngôn hòa hợp vớihữu của hiện thể. Platon và Aristote đã chú ý đến sự hòa hợp này như trong thiên Theatet 155dPlaton nói cảm tínhcủa một triết gia là phải ngạc nhiên, không có khởi điểm nào khác
Khi nhận xét bản tính tương lai của triết học, Heidegger nghĩ là chúng ta đi tìm cách nghe tiếng gọi của hữu: Sự hòa điệu nào trong tư tưởng hiện đại? Ông cho rằng sự hòa hợp cơ bản vẫn còn ẩn giấu vì tư tưởng hiện đại vẫn chưa tìm ra con đường rõ rệt.Tương ngôn là một cách nói, phụng sự ngôn ngữ. Nhưng quan niệm của chúng ta ngày nay đã thay đổi một cách kỳ quái, không còn là kinh nghiệm của người Hy Lạp về logos, "cách nói về hữu mà ta đáp ứng khi nghe rằng tư tưởng là nghe và nhìn”.
Phải chăng công việc triết học la công việc của một số ít người muốn cứu vãn điều kinh ngạc nhất là hiện thể trong hữu, khởi sự con đường về hướng sự việc kinh ngạc này, đó là sophon.Heidegger nói: Khi thực hiện điều này, họ phải trở thành những người đấu tranh cho sophonvà qua sự đấu tranh công chính này vẫn thức tỉnh và bảo vệ sự hoài niệm giữa những tha nhân.
Derrida gọi sự hoài niệm này là nguồn gốc của triết học.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí ThànhVăn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường