Khoa học hiện đại và triết học
Trong bài "văn hoá khoa học và văn hoá nhân văn" trên Tạp chí Văn học, số 2 năm 1994, tác giả Hoàng Đình Phu đã viết như sau: "Khoa học chỉ là một kiểu nhận thức, chứ không phải là kiểu nhận thức duy nhất... còn có những kiểu nhận thức... dựa vào trực giác, vào suy tư, vào các hoạt động nội tâm".
Trong lịch sử khoa học, người ta coi phát minh về lý thuyết tương đối của A.Einstein là sự mở đầu cho khoa học hiện đại, bởi vì từ đây con người khám phá ra một thế giới mới và gắn liền với nó là một phương pháp khoa học hoàn toàn khác về chất so với khoa học cổ điển. Trong cuốn Cơ cấu cách mạngkhoa học, nhà triết học người
Vào đầu thế kỷ XX,
Sự kiện lượng tử không thể tách ra được như một vật thể đã chứng tỏ rằng thếgiới, đó còn là thế giới của những mối liên quan với nhau giữa mọi sự vật, của các quan hệ, các tác động qua lại. Hơn nữa, thực thể lượng tử vừa là hạt, vừa là sóng. Ở đây tính liên tục và tính gián đoạn cùng tồn tại hài hoà. Mặc dù, năng lượng biến đổi
Đối vời chúng ta, hình như các hạt lượng tử liên hệ với nhau bằng một liên thông bí ẩn, bởi vì chúng vượt qua hàng rào không gian và thời gian. Hai Photon tương tác với nhau không phải
Cho đến thế kỷ XIX, vật lý học
Vì sức sống của cái ngẫu nhiên nằm trong thực tại, cho nên thực tại bao chứa cái không thể tiên đoán, cái bấp bênh.Và đó chính là nền tảng của lý thuyết hỗn.độn. Như vậy, bản thân thực tại là hỗn độn, chứ không do sự bất cập của hệ thống tri thức của chúng ta, hay không do sự không hoàn hảo của thiết bị kỹ thuật của chúng ta. Trong thế giới hỗn độn, đầy ngẫu nhiên, nhiều dự đoán gần như không sao thực hiện được bởi vì một nguyên nhân bé có thể dẫn đến những hiệu quả to , cực to mà con người dường như không tưởng tượng nổi. Nhà khí tượng học người
Cùng với lý thuyết về hỗn độn, lý thuyết về phức hợp cũng không kém phần bí ẩn. Nhà triết học người
Rõ ràng, khoa học hiện đại đã tạo dựng một quang cảnh mới và đã đóng lại thời kỳ tôn thờ cái châm ngôn khoa học “càng đơn giản thì càng đẹp, càng đúng", đã mở màn cho một châm ngôn khoa học mới "càng phức hợp, càng hỗn độn thì càng hiện thức". Càng hiện thực bởi vì cái bị quy định
Nhà triết học người Đức Jaspers đã viết rằng: Cuộc khám phá vũ trụ cho ta thấy khoa học thực nghiệm chưa hoàn thành được công việc. Triết học phải tiếp tục công việc mà khoa học bỏ dở. Whitehead, nhà triết học Anh, nói rõ chỗ bỏ dở đó là khoa học nói
Người ta nghĩ rằng nguyên lý bất định chỉ có thể áp dụng vào cái vô cùng nhỏ ở quy mô lượng tử, còn ở quy mô lớn thì có những quy luật tương ứng vững chắc như bê tông ngự trị. Nhưng, rõ ràng là trong những điều kiện nhất định, nguyên lý về hôn độn vẫn tồn tại ngay ở quỹ đạo của hành tinh. Chẳng hạn, một trong những vệ tinh của sao
Thiên văn học hiện đại không thể không gợi nên những băn khoăn về ý nghĩa tột cùng của vũ trụ.Đây không còn là vấn đề của khoa học mà là của triết học. Thiên văn học, môn khoa học hình như đi tới gần cội nguồn của những điều bí ẩn của tồn tại, đi tới những miền mà vật lý học hầu như hoà lẫn vào siêuhình học.
Ở phương Tây, cho đến nay người vẫn trung thành với định nghĩa của nhà khoa học, nhà triết học lớn
Người ta cho rằng chủ nghĩa quy giản ca tụng một thứ chủ nghĩa nhị nguyên tầmthường, sai lầm và tĩnh tại đã không biết, đã quên lãng nhân tố thứba này của sự nhận thức. Trực giác mà
"Ngọn đèn" soi đường cho khoa học mà các nhà khoa học lớn truyền tay nhau đã được Tuyên bố Venisethắp sáng lên: “Sự gặp gỡ bất ngờ và bổ ích giữa khoa học với các truyền thống khác nhau trên thế giới cho phép ta nghĩ đến sự xuất hiện một cách nhìn về loài người, thậm chí một chủ nghĩa duy lý mới có thể dẫn đến một triển vọng siêu hình học mới".
Chủ nghĩa thực chứng chỉ sùng bái khoa học. Vì vậy, chủ nghĩa duy khoa học của nó đối lập với tất cả những gì có trước nó, khác nó mà nó gọi là truyền thống.Truyền thống là toàn bộ các học thuyết, các tập tục tôn giáo, tâm lý, đạo đức, là toàn bộ thông tin ít nhiều mang tính truyền thuyết liên quan tới quá khứ. Tóm lại, đó là toàn bộ những hiểu biết trong sự tiến hoá tinh thần của con người về vị trí, về mối quan hệ của con người trong các thế giới khác nhau. Toàn thể những hiểu biết ấy, mặc dù có những hình thức đa dạng trong giao lưu, và có những biến dạng do thời gian và lịch sử gây nên, nhưng nhìn
Khoa học trước đây đối lập với truyềnthống ít nhất ở mấy mặt sau đây:
Khoa học dựa trên sự nhận thức thực tại qua trung gian lý tính, trí tuệ, kết cấu logic và toán học. Trái lại, truyền thống suy ngẫm, phát hiện, nhận biết trực tiếp về thực tại bằng thể xác, bằng bản năng, bằng cảm giác bằng niềm tin. Nó coi tư duy thân xác tế vi, cao hơn tư duy logic.
Khoa học giả định rằng một tiền đề nào đó về sự tồn tại của một thực tại khách quan phải được chứng minh trong một không gian, thời gian xác định. Trái lại, truyền thống luôn khẳng định rằng thực tại không gắn với không thời gian. Vấn đề là chỉ cốt sao tìm được bản thể đích thực của đối tượng bằng việc hoà nó vào một thực tại duy nhất, bao hàm tất cả.
Khoa học thực hiện thí nghiệm. Thí nghiệm đó được truyền đạt và được lặp lại, được xác định một cách khách quan và ở mức tối đa. Thí nghiệm là quan toà tối cao của khoa học. Trái lại, trong rất nhiều trưởng hợp, truyền thống không thể truyền đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên, nó là “vô ngôn". Thí nghiệm của truyền thống là duy nhất, là triệt để vượt qua những phạm trù logic thông thường.
Khoa học quan tâm chủ yếu đến hiệu quả ở mức cao nhất, trên phương diện tính vật chất trực tiếp, nhằm dẫn tới những phát minh. Trái lại, truyền thống có quyền không tính tới hiệu quả đối với tính vật chất không gian - thời gian, tính vật chất trực tiếp của quan sát.
Tóm lại, khoa học hiện đại vẫn khác với truyền thống về bản chất, cả về phương điện huy động và về mục đích. Chúng như hai cực của một mâu thuẫn, hai cái nan hoa của một bánh xe. Tuy khác nhau, nhưng chúng luôn luôn hướng về một tâm: đó là con người và sự tiến hóa của con người. Đây là nguyên lý về sự cần thiết đối với truyền thống của khoa học hiện đại.
Thế giới ngày nay hiện ra như một tấm thảm rộng mênh mông làm bằng nhiều mảnh bị
Để làm rõ ý tưởng này, chúng tôi xin đề cập tới phát minh khoa học của
Như vậy, trong sinh lý học chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý, khoa học và siêu hình học không còn chỉ là những tư biện, những điều bày đặt của nhà triết học, mà đã có những chứng cứ mạnh mẽ. Vấn đề lớn nhất đặt ra cho triết học là trong não người không phải chức năng này tiêu diệt chức năng kia, mà là cùng hợp tác để tạo nên con người.
Gắn khoa học với siêu hình học, khoa học hiện đại đã đặt con người vào trung tâm của quá trình nhận thức thực tại. Con người không phải là khách thể mà là chủ thể quan sát thực tại đó. Phải chăng đây là một dấu hiệu khẳng định sự đúng đắn của dự báo nổi tiếng của Mác: "Khoa học tự nhiên sẽ bao gồm khoa học về con người, cũng như khoa học về con người sẽ bao gồm khoa học tự nhiên, và đó sẽ là một khoa học".
Sự phân ngành khoa học không bao giờ chấm dứt mà ngày càng mạnh mẽ hơn, cho nên không bao giờ khoa học trở thành một. Khoa học tự nhiên hiện đại đi theo chiều “một khoa học" là ở chỗ, nó đón nhận, thừa nhận địa vị con người, nói như Jacques Monod, phải có "đạo đức học của nhận thức", nhận thức khoa học phải mang giá trị do con người đưa lại, và như vậy nó bỏ lại phía sau chủ nghĩa duy khoa học để trở thành văn hoá khoahọc. Khoa học thiếu sự hiện điện của con người, khoa học không có sự đối thoại vớitriết học là khoa học chết, khoa học chưa phải là văn hoá.
Từ giữa thế kỷ, triết học về khoa học càng ngày càng mang tính chống thực chứng, đáng lưu ý nhất là ở Mỹ, nước sớm đi vào xã hội hậu công nghiệp. Chủ nghĩa thực chứng mới nhất là trường phái Vienna - trường phái theo đuổi "chương trình thủ tiêu triết học", tuyên bố "triết học đã chết", chỉ thừa nhận mệnh đề khoa học, còn mệnh đề siêu hình học là không có nghĩa. Các nhà triết học về khoa học hậu thực chứng đòi phục hồi lại siêu hình học, đòi xây dựng lại bản thể học mới. K.Popper bác bỏ chủ nghĩa duy kinh nghiệm thực chứng chủ nghĩa, coi phương pháp quy nạp trong khoa học là đáng nghi ngờ. Popper cùng chia sẻ với G.Bachelard, đề xướng ý tưởng cho rằng sự tưởng tượng là bí quyết của sự thành công khoa học. Đi mạnh mẽ nhất
Để giải được “vấn đề” đầy ngạc nhiên của khoa học, K.Poppêr đã huy động chú giải họcđể khơi dậy sự tưởng tượng, nhằm dẫn tới lý thuyết khoa học. Cũng từ chú giải học
Nếu Popper cho chỉ có siêu hình học mới đóng được vai trò phác thảo đầu tiên của lý thuyết khoa học, thì Lakatos coi siêu hình học là "hạt nhân rắn", tức những nguyên lý bất biến không thể bị bác bỏ trong khoa học. T.Kuhn đã đưa siêu hình học vào hệ chuẩn và đã lý giải mối quan hệ "hệ chuẩn - xã hội khoa học" (paradiglne socxiété scientifique)
Trong trường phái lịch sử Mỹ, Wartofski là người tích cực nhất trong việc phục hồi siêu hình học để phát triển khoa học. Ông đặc biệt kế thừa phạm trù lương tri trong siêu hình học của triết học cổ điển đó là năng lực phân biệt cái đúng, cái sai, (thật, giả) - những cái tồn tại một cách tự nhiên, ngang nhau ở mọi con người. Từ đó, ông làm rõ nhiều chức năng của siêu hình học trong khoa học: gợi mở cho khoa học, xây dựng các mô hình cơ bản của nhận thức khoa học, phê phán các luận cứ cơ bán của khoa học... Nước Mỹ hiện nay có một nền khoa học phát triển nhất thế giới. Điều đó không thể không biết tới sự đóng góp của các nhà triết học về khoa học - những người cũng đi đầu trong việc khẳng định nhân tố con người trong nhận thức khoa học.
Khoa học hiện đại, nói như Jaspers, nhờ “sự làm việc" của triết học mà gốc là siêu hình học, đã vượt lên những bế tắc để phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội cũng đã nhờ cái lực đẩy đó mà trở thành khoa học nhân văn, khoa học con người.Khoa học nhân văn chỉ có thể xuất hiện cùng lúc khi triết học về con người đã phát triển tới đỉnh cao. Đó là một cuộc cáchmạng trong nền văn hoá của loài người khi bước vào thế giới hiện đại. Giờ đây, khi khoa học hiện đại được triết học khơi nguồn thì chủ nghĩa trung tâm xã hội phải lùi bước và "chủ nghĩa trung tâm cái tôi" phải được thay bằng quan niệm coi con người là trung tâm thực tại, con người là chủ thể để nhận thức thực tại. Chủ nghĩa kỹ trị phải được thay thế bằng chủ nghĩa nhân trị (anthro pocratime). Không chỉ có "văn học là nhân học", mà tất cả các khoa học xã hội, kể cả các bộ môn lấy xã hội làm trung tâm như xã hội học, kinh tế... cũng đều trở thành khoa học nhân văn, một khi chúng gắn hữu cơ với triết học con người.
"Một khoa học" không phải ở chỗ "văn hoá khoa học" và "văn hoá nhân văn" "thâm nhập vào nhau”. Sự phân ngành khoa học là vô tận. Khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn trở thành một khoa học vì chúng đã làm đảo lộn "trường" của những cái vì sao do triết học đưa lại. Các khoa học - khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn - đối thoại với nhau trong những câu hỏi rối như tơ vò mà E.Morin gọi là tính phức hợp. ông miêu tả bằng cách thêm một ý tưởng vào định nghĩa của Des- cartes: Triết học như là một cái cây, rễ là siêu hình học, thân là hình nhi hạ học và những cành mọc ra từ đó là các khoa học khác.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáVăn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường