Viễn cảnh mới cho thế kỷ XXI
Vào buổi bình minh của thế kỷ XXIđiều cần thiết là phải tập trung suy ngẫm đến những vấn đề nảy sinh từ sự phát triển và cấu trúc hệ thống hoá chặt chẽ của công nghệ hiện đại. Sở dĩ như vậy là vì vấn đề quan trọng nhất hiện nay chính là sự sống còn của con người và các sinh vật khác trong những nền văn hoá người nhằm mục đích hướng đến một nền hoà bình cho những thế hệ tương lai.
Chúng ta tin tưởng rằng tương lai của toàn cầu phụ thuộc vào những quyết định liên quan đến hoạt động của chúng ta nhìn từ quan điểm đạo đức học sinh thái. Những hoạt động của chúng ta là kết quả của sự suy ngẫm được giả định trong tam đoạn luận ứng dụng.
Tiền đề lớn rõ ràng là một mong muốn của con người, còn tiền đề nhỏ ở đây xác định những phương tiện qua đó liệt kê những cách thức có thể có nhằm hiện thực hoá cái mục đích mong muốn, qua sự đánh giá thực tiễn cũng như đạo đức những phương tiện đó. Nguyên tắc của sự lựa chọn này là kalista raista,thực chất là cái dễ dàng nhất và đẹp nhất.
Đặc trưng căn bản nhất của thế kỷ XX là việc đã tạo dựng nên một tình huống hoàn toàn mới, đó là hiện trạng liên kết công nghệ. Ngay cả trong thế kỷ XXI môi trường của chúng ta cũng không chỉ là môi trường tự nhiên mà còn là môi trường được gắn kết bởi công nghệ, một môi trường nhân tạo. Mục tiêu quan trọng nhất của hiện trạng liên kết công nghệ là ở chỗ phải cải tiến phương pháp sản xuất
GS. Imamichi đã khám phá ra cấu trúc tam đoạn luận ứng dụng mới trong bối cảnh liên kết công nghệ như sau:"Không phải mục đích hành động của chúng ta đang rõ ràng hơn mà là những quyền năng khổng lồ đang trở thành nguồn dữ liệu ngày càng hiển nhiên hơn. Ưu thế logic của những phương tiện này với tư cách là quyền năng nhằm đạt được mục đích của con người đã được thiết lập một cách vững chắc
Tiền đề lớn là sự thừa nhận những nguồn năng lượng lớn như là năng lượng điện, năng lượng hạt nhân, kỹ thuật nhân bản hay nguồn tư bản lớn. Và chúng ta phải hướng đến việc tìm ra một mục đích phù hợp nhất. Vậy mục đích mà chúng ta có thể đạt được bằng nguồn năng lượng khổng lồ như vậy là gì? "Tiền đề nhỏ chính là sự lựa chọn cái mục tiêu có thể được hiện thực hoá bằng nguồn năng lượng về cơ bản được đảm bảo nhờ công nghệ". Sự lựa chọn này được thực hiện dựa trên nguyên tắc hiệu quả.
Ở đây chúng ta có thể nhận thấy sự lặp lại đầy bi kịch cái cấu trúc logic liên quan đến những tiền đề của tam đoạn luận ứng dụng. Tại sao lại là bi kịch? Sở dĩ như vậy là vì một hành động bao giờ cũng là kết quả của sự suy nghĩ, nhưng kết quả này không phải bắt nguồn từ sự sâu sắc của ý thức sinh thái mà lại bắt nguồn từ cái chủ thể được tập hợp một cách thiếu logic không tính đến giá trị của cái dễ dàng nhất và đẹp nhất, mà chỉ xuất phát từ hiệu quả kinh tế. Nếu chúng ta suy ngẫm đến hành vi đạo đức thì rõ ràng là hiện trạng công nghệ ngày nay đang tỏ ra bất lực vì thiếu thời gian.
Sự trừu tượng hoá
Thuật ngữ trừu tượng hoá được sử dụng để chỉ quá trình logic hình thành nên khái niệm, bằng cách đưa lại cho khái niệm đó một nội hàm quan trọng qua việc rút ra những yếu tố
GS. Imamichi đã nói về sự trừu tượng trong thời kỳ công nghệ hiện đại, tức là trong thời kỳ đồ sắt, như sau:
"Một sự trừu tượng hoá mang tính cách mạng rộng lớn đã diễn ra trong vòng 200 năm qua: Có thể nói đó là sự trừu tượng công nghệ với ý nghĩa là sự trừu tượng năng lượng. Trước tiên con người tự rút những năng lượng vô hình từ nước, than đá, dầu lửa... Bản thân năng lượng thì không nhìn thấy được nhưng chúng lại được nuôi dưỡng bởi sức nóng sản sinh ra trong quá trình nhiệt động. Hơi, lửa và điện là những thứ hữu hình nhưng bản thân năng lượng lại là vô hình.
Sự vô hình
Vậy trong bối cảnh công nghệ, sự trừu tượng hoá là gì?
Mục đích cuối cùng của hiện trạng liên kết công nghệ này chính là: tiết kiệm thời gian, tức là thực hiện một việc gì đó một cách nhanh chóng mà không cần suy xét đến hậu quả tác động của nó.
Đạo đức học sinh thái, nền đạo đức mới trong bối cảnh công nghệ hiện đại, hẳn phải được tìm kiếm bởi vì một xã hội công nghệ phát triển đồng thời cũng là giai đoạn khủng hoảng của ý thức con người. Hiện tượng toàn cầu và phổ biến bắt nguồn từ xã hội thống nhất công nghệ như vậy nhưng lại được liên kết và cắt nghĩa bởi một thứ ngôn ngữ duy nhất là tiếng Anh, ở đó những ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh bị giết chết và biến mất vĩnh viễn. Đây chính là hiện tượng cái chết của một nền văn hoá. Vì thế đạo đức nhân loại phải được thực hiện đến cùng.
GS. Imamichi đã khẳng định sự cần thiết phải có một nền đạo đức học mới, đạo đức học sinh thái với tư cách là đạo đức của nhân loại nói
Siêu công nghệ
Siêu công nghệ là sự suy tư triết học về triển vọng phát triển mới đây của tồn tại người, sự tồn tại này phải được mở rộng vì tương lai của xã hội chúng ta. GS. Imamichi ủng hộ yêu cẩu cần phải phân tích công nghệ hiện đại trong phạm vi nghiên cứu của đạo đức học sinh thái. Ông gọi công việc đó là siêu công nghệ, vào năm 1998 ông cho rằng phải làm rõ khái niệm mới này, khái niệm phủ định công nghệ. Ông nói về sự phủ định công nghệ như sau:
Môi trường của chúng ta được sáng tạo bởi nhiều chiều cạnh, ít nhất chúng ta cũng thấy có ba chiều cạnh khác nhau, được đan xen rất phức tạp, đó là giới tự nhiên, công nghệ (artifacts = đồ tạo tác) và văn hoá. Chúng ta hoàn toàn đã có khoa siêu hình học với ý nghĩa là siêu khoa học về tự nhiên. Nhưng chúng ta còn thực sự chưa có siêu công nghệ với tư cách là siêu khoa học về công nghệ. Cho nên một trong những nhiệm vụ cấp thiết của siêu công nghệ là phải đưa ra được một kiến nghị nghiên cứu phủ định công nghệ cho những nhà khoa học công nghệ. Đó không phải là sự phủ định kỹ thuật và công nghệ mang tính đối lập theo nghĩa phủ định thần học là sự phủ định đã tạo dựng nên bằng chứng về sự tồn tại siêu phàm, sự phủ định thần học là nhiệm vụ của thần học, điều muốn nói ở đây chỉ là ý nghĩa tích hợp của thần học và phủ định công nghệ, theo GS. Imamichi, sự tích hợp đó có thể kiến tạo nên ý nghĩa tích hợp công nghệ một cách trọn vẹn.
Nhiệm vụ của phủ định công nghệ nằm ở ý nghĩa tích hợp công nghệ, đó chính là ý nghĩa tích hợp công nghệ hoàn hảo, chứ không phải chỉ là quá trình logic của sự phủ định hiện trạng liên kết công nghệ. Vậy sự phủ định công nghệ là gì? GS. Imamichi đã trả lời câu hỏi này như sau: Phủ đinhcông nghệ thì tương phản với khẳng đinh công nghệ,là thứ chỉ biết sản xuất ra nhữngđồ tạo tácđể sử dụng, phủ định công nghệ phải nhằm mục tiêubiến nhữngđồ tạo tác đượctrừu tượng khỏi giới tự nhiênđó thành cơsở của giới tự nhiên với tư cách là giới tự nhiên.
Ông nói, "Khuynh hướng khẳng định công nghệ này đối lập với chu trình tự nhiên, có thể nói, khẳng định công nghệ là sự phủ đinh vậtlý (
Chúng ta phải đánh giá được chu trình của tự nhiên, còn lý thuyết phủ định công nghệ cũng như hoạt động ứng dụng lý thuyết đó của chúng ta là một chu trình nhân tạo, tức là sự tái tạo bằng cách biến những đồ tạo tác thành cơ sở của tự nhiên với tư cách là giới tự nhiên. GS. Imamichi cho rằng, "siêu công nghệ làm sáng tỏ nguyên lý công nghệ và đặc trưng của nguyên lý đó. Nguyên lý nền tảng của công nghệ là tính người (anthropos), loài người và đặc trưng của loài người phải được làm rõ giống như trong trường hợp con người với tư cách là kẻ sáng tạo thì đã được nghiên cứu bởi siêu hình học. Nguyên lý công nghệ cơ bản này, tức là xem con người với tư cách là nhân tố con người, đã chỉ ra đặc trưng căn bản của con người biểu hiện qua ý định chế tác ra các đồ vật của họ. Dự định sáng tạo những kỹ thuật cơ bản (gồm đồ tạo tác và phương pháp sản xuất hay sử dụng sản phẩm) được chia thành hai phần cơ bản:
Thứ nhất là vượt qua những điều kiện khắt khe của tự nhiên để tồn tại, con người phải tách mình khỏi những điều kiện tự nhiên để cải thiện điều kiện sống của mình.
Thứ hai, con người phải tách mình khỏi những sinh vật sống tự nhiên khác để có được một điều kiện sống tốt hơn. Ông thêm, "Bằng sự suy ngẫm siêu công nghệ như vậy con người trở nên siêu việt bởi chính đặc trưng mà chỉ riêng con người mới có, khuynh hướng siêu việt này cũng được con người sử dụng để tách biệt mình một cách ích kỷ với thế giới xung quanh".
Với tư cách là dẫn chứng về phẩm hạnh trong thời đại liên kết công nghệ ngày nay chúng tôi sẽ chỉ ra sự an toàn.
Bàn về sự an toàn
Chúng ta có thể tìm thấy từ an toàn trong tác phẩm của Hôpxơ (
Chúng ta phải tránh chiến tranh và tìm kiếm những khả năng đem lại hoà bình. Chúng ta phải nghĩ đến bộ luật thứ hai, "rằng một người sẽ sẵn lòng, khi mà những người khác cũng vậy, bảo vệ hoà bình, bảo vệ chính bản thân anh ta với bất cứ giá nào anh ta cho là cần thiết, khi đó con người sẵn sàng đặt quyền này lên trên hết, nhưng anh ta cũng tự do chống lại những người khác khi họ chống lại anh.
Chúng ta cũng phải bổ xung vào bổn phận về Quyền hạn thứ nhất của
Chúng ta phải cố gắng làm sáng tỏ sự kết hợp giữa đạo đức với tư cách là đạo đức của loài người trong quá trình tiến hoá và đạo đức (ethica ad rem) trong đạo đức học sinh thái. Trong xã hội thông tin, việc sử dụng điện thoại di động buộc chúng ta phải cân nhắc đến việc sử dụng hình ảnh là thứ có được một số giá trị mà con người cần, và bằng những hình ảnh của điện thoại di động tình hữu nghị và những mối quan hệ sẽ được củng cố.
Những phẩm hạnh người
Trong xã hội thông tin, chất lượng tri thức phải được thay đổi. Với tư cách là kết quả, giáo dục cũng nên thay đổi. Điều cần thiết là phải trở lại vôi những tác phẩm kinh điển và củng cố nền tảng đã có của chúng ta.
Năm 1872,
Trong triết học
Thái độ của Khổng Tử có liên quan tới giá trị đạo đức thông qua vẻ bề ngoài là nghi lễ. Tôi cho rằng những quyền con người bằng cách này hay cách khác đều liên quan đến Tồn tại siêu nghiệm và cuối cùng thì cũng có quan hệ với thái độ đạo đứcchẳng hạn chúng có quan hệ với những phẩm hạnh trong cuộc sống hàng ngày.
Tôi muốn dẫn chứng ra đây một phẩm hạnh, đó là trung. Trong thời kỳ phong kiến, trung xác định quan hệ xã hội của những người thuộc tầng lớp dưới với những người thuộc tầng lớp trên, những kẻ thống trị. Nhưng văn bản cổ này của
Tôi cho rằng phẩm hạnh quan trọng nhất trong một xã hội thông tin là "phronesis" (đánh giá về mọi việc xung quanh trên cơ sở lý tính). Luật pháp của mỗi quốc gia đều nhằm bảo vệ quyền của mỗi cá nhân trong một đất nước. Nhưng trong một xã hội được kết nối bởi Internet thì luật pháp quốc gia tỏ ra không còn phù hợp nữa, đôi khi còn kém hiệu lực.Tôi cho rằng luật pháp quốc gia là cần thiết cho mỗi cá nhân nhưng như thế chưa phải là đủ. Lối suy nghĩ dựa trên tiền đề cho rằng một người càng có nhiều thông tin, thì càng sống tất hơn.Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là sốlượng thông tin mà còn là chất lượng thông tin. Trong trường hợp người nghèo và trẻ em thì ai sẽ là người bảo vệ họ khỏi sự thiếu thông tin như vậy? Là quốc gia ư? Điều này cũng có thể là quốc gia làm được, nhưng đôi khi chẳng hạn như chiến tranh và trao đổi thương mại hay việc buôn bán nội tạng...đã vượt khỏi phạm vi của luật pháp quốc gia. Ngày nay, việc bảo vệ quyền con người được thực hiện qua việc tấn công vào các sắc luật của Chính phủ.
Giáo dục triết học về quyền con người
Chúng ta phải tìm ra một số nguyên lý cơ bản để phát triển một hệ thống giáo dục mới nhằm hiện thực hoá tiềm năng của mỗi cá nhân.
1) Giáo dục phải là sự giải phóng gồm cả người giải phóng thoát khỏi sự ngây thơ.
2) Phẩm hạnh "phronesis" phải được tìm kiếm để trẻ em có được tự do.
3) Nghiên cứu các tác phẩm và các tác gia kinh điển giúp một người có thể vươn tới tầm khoa học nhân văn truyền thống và có được một tương lai mới.
4) Đạt được khả năng tưởng tượng và phản ánh bằng nền văn hoá của chính mình là điều cần thiết đối với mỗi cá nhân.
5) Với tư cách là một cá nhân của xã hội hiện đại, mỗi người phải rèn luyện khả năng sáng tạo của bản thân.
Một thành ngữ
Khi xem xét đến môn "paideia" (nhi đồng học) chúng ta phải xây dựng được một hệ thống giáo dục mới. Trong tiếng Hy Lạp, ở từ chỉ sự giáo dục, "paideia", chúng ta có thể nhận thấy nghĩa ban đầu của từ này, bắt đầu bằng từ "pais" (đứa trẻ) và từ "paideuo"- có nghĩa là làmcho "pais" lớn lên thành một người có lý trí, điều đó có nghĩa là, nuôi dưỡng trí tuệ cho trẻ em. Theo cách hiểu của Kitô giáo, Gregorius of Nyssa đã chỉ rõ rằng nền giáo dục Hy Lạp là quá trình hình thành nên con người, tức là sự hiện thực hoá một cách hoàn hảo nhân tính. Theo W. Jeager, hình thức giáo dục lý tưởng ở Hy Lạp là tạo lập những biến dị (morphosis), điều đó có nghĩa là, xây dựng và phát triển tính người và tinh thần con người song song với quá trình lớn lên về thể chất. Cùng một lúc giáo dục trẻ em (paideia) vừa là nỗ lực có ý thức của con người vừa là kết quả của những nỗ lực đó thông qua việc trang bị tri thức và qui tắc đạo đức đã được định hướng
Nhờ giáo dục một đứa trẻ có thể đạt được năng lực đủ sâu sắc để giải thích sự vật hiện tượng thông qua việc xem xét, đánh giá chúng nhờ vào tri thức mà nó có và đứa trẻ cũng đủ năng lực để lý giải tương lai mới từ chính vị trí của nó và của xã hội bao quanh nó, cái xã hội bao gồm cả sự tồn tại của những người khác. Trẻ em, với tư cách là những cá nhân đang trưởng thành phải đánh giá được những khả năng hiện thực hoá quyền con người của những cá nhân khác.
█Mối quan hệ ảo
Theo sự giải thích của Tomonobu Imamichi, kỷ nguyên sau 1970 là giai đoạn vô định hình, đã là thời kỳ thế giới công nghệ bị chiếm giữ bởi quá trình điện toán mang tính khách quan. Trong xã hội công nghệ này, những hình thức cụ thể không cho thấy những chức năng của nó. Ví dụ, một chiếc hộp đen nhỏ, một chiếc máy quay bí mật: khái niệm - hình dạng với tư cách eidos (có thể hiểu là: thực thể, thấu niệm - ND) bắt nguồn từ sự đồng nhất hoá khi chức năng của nó bị loại bỏ. Trong một xã hội như vậy thì những hình ảnh động (moving images) quan trọng hơn những hình dạng (form). Ngày nay, dưới góc độ nghệ thuật, không chỉ những hình ảnh (images) mà còn cả những hình vẽ (figures), có nghĩa là một loạt những hình dạng chuyển động cụ thể, mới là những thứ đóng vai trò cơ bản. Sự giải thích nghệ thuật như thế là con đường để thấu hiểu được tư tưởng của nó, tức là nắm được "Ma" mà không mắc một sai lầm nào. Vì thế, nghệ thuật mà không có khả năng giải thích thì chỉ là thứ nghệ thuật không hiểu gì về “Ma". Nếu một người không hiểu "Ma" với tư cách là sự khác biệt được xác định với "Cosmic Chi", thì anh ta hay cô ta sẽ nhầm lẫn giữa thẩm mỹ học, đạo đức học và tôn giáo. Trong một số cuốn sách viết về "Geido"(Đạo Nghệ) chúng ta cũng tìm thấy những câu gợi ý đề cập đến mối quan hệ giữa nghệ thuật và tôn giáo.
Chúng ta có thể tìm được một ví dụ rất hay trong tác phẩm Thuật bắn cung Nhật Bản(Japanese Archery) do Eugen Herrigel viết vào năm 1986. Ông viết về những trải nghiệm thần bí của mình trong thuật bắn cung Nhật Bản nhằm mục đích thưởng ngoạn qua những lời cầu nguyện của Thiền Phật giáo. Ông nhận ra con đường nghệ thuật chính là sự đồng nhất giữa ý thức và vô thức.
May mắn là (qua Thuật bắn cung Nhật Bản), chúng ta có thể biết được dạng thức đơn giản nhất trong cách suy ngẫm huyền bí mà những thày tu Thiền Phật giáo thực hành... Mục đích của cách suy ngẫm này, trong sự hoàn hảo cuối cùng của nó, là "nắm lấy mục tiêu và tấn công mà không cần cung tên". Đây là giai đoạn cuối cùng để đạt được mục đích, nếu một người thực hiện đường đi của mũi tên này một cách chính xác. Vì vậy, tồn tại vô thức hay ý thức khi chúng ta sử dụng cung tên để đắm chìm vào vô định thì cũng giống như thưởng ngoạn khi ta ngồi và nắm tay một người nào đó cùng cầu nguyện (Thuật bắn cung Nhật Bản).
Tại sao chúng ta lại phải suy ngẫm về tương lai dưới góc nhìn triết học? Bản thân triết học hẳn phải là mang tính tiên đoán (prophicic). Đạo đức học sinh thái là nhiệm vụ của những người nghiên cứu triết học nhằm thiết lập nên hệ thống đạo đức trong một không gian người, cái không gian mà gần đây đã được mở rộng bởi nhiều loại công nghệ hiện đại.
"Đạo đức sinh thái" là gì?
Đạo đức sinh thái được GS.
Đạo đức sinh thái là đạo đức trong thế giới người được mở rộng bởi công nghệvà văn hoá. Một mặt thế giới người được mở rộng
Đạo đức sinh thái là một thứ đạo đức triết học cơ bản trong môi trường mới với tư cách là không gian hoạt động mới của con người. Vì thế nó không phải là đạo đức môi trường, nó cũng không phải là đạo đức sinh học hay đạo đức toàn cầu hay bất kỳ thứ đạo đức ứng dụng nào, mà là đạo đức triết học cơ bản, thứ đạo đức tương phản một cách rõ ràng với đạo đức truyền thống là cái đã được xây dựng nên khi môi trường người chỉ thuần tuý là giới tự nhiên.
Nét đặc trưng nhất của thế kỷ này gần đây được tạo nên bởi hiện trạng liên kết công nghệ. Giờ đây ngay cả khi môi trường của chúng ta là giới tự nhiên thì sự cố kết công nghệ tự nhiên đó đã trở thành một môi trường nhân tạo mạnh mẽ. Hiện trạng công nghệ ngày nay đang hướng mục tiêu vào việc rút gọn quy trình, tức là giảm thiểu thời gian để đạt được hiệu quả. Việc phân tích hiện trạng công nghệ là rất khả quan, bởi vì chúng ta đã xác định được các khái niệm, chẳng hạn như khái niệm về người hàng xóm, gần đây khái niệm người hàng xóm được xác định là những người được kết nối với nhau bởi các loại máy như điện thoại, fax, và internet.
Nền đạo đức học truyền thống đã bao hàm cả siêu hình học, bởi vì trong lĩnh vực vật lý, đạo đức học sinh thái tương tác với siêu công nghệ, là thứ suy ngẫm triết học về công nghệ nói
Bằng cách nghiên cứu siêu công nghệ chúng ta đã tìm ra một loại trừu tượng mới, trừu tượng về kết quả và đúc rút được cách thức sản xuất. Một sự phân loại mớiđã được xác lập: đó không phải là sự phân loại dựa
Siêu hình học quan trọng là ở chỗ: bằng sự phân tích siêu hình học chúng ta có thể phân biệt hình thức, hoạt động mang tính hiện tượng bề ngoài và quyết định hành động mang tính đạo đức bên trong. Hành động không phải đơn thuần là sự phản ứng, mà là kết quả của suy nghĩ, là thứ đã được giả định trong tam đoạn luận ứng dụng. Qua sự phản ánh hiện tượng luận khi so sánh giữa hình thức logic của tam đoạn luận truyền thống với tình trạng hiện đại hay hậu hiện đại của hành động, chúng ta có thể luận giải được nhiều vấn đề đạo đức sinh thái.
Ngày nay người Nhật đang phải đối mặt với sự nguy hiểm của chủ nghĩa vị kỷ (nosism). Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của đạo đức sinh thái là quy giản những xúc cảm cơ bản trong hoạt động của cá nhân thành mối quan tâm nội tại của chủ nghĩa cá nhân, về cơ bản xuất phát từ chủ nghĩa vị kỷ.
Trong nghiên cứu đạo đức sinh thái, GS. Imamichi đã đưa ra công thức cho những nghiên cứu được tiến hành gần đây về siêu công nghệ, về công nghệ dinh dưỡng, về đô thị hoá và nghiên cứu so sánh...
Những phát minh mang tính bản thể luận là nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của đạo đức học sinh thái. Sự đúng giờ, nắm vững cách sử dụng máy móc (machinastike), khả năng thích ứng (corresponsibility), nắm vững ngoại ngữ (philoxenia), eutrapelia.. là những thứ được thảo luận với tư cách những phẩm hạnh mới.
Đạo đức sinh thái bao gồm đạo đức giữa con người vôi con người, đạo đức (ethica ad rem) và đạo đức đối với đồ vật (mương res). Điều cần thiết là phải phân biệt được res (đồ vật) và reale. Cái sau (reale) là công nghệ vôi tư cách là sản phẩm của con người. Nhưng có lẽ nghệ thuật không phải là công nghệ (reaie) mà là đồ vật (res), mặc dù nghệ thuật là những thứ do con người sáng tạo ra.
Thời gian và âm điệu là những chiều cạnh đối tượng môi của đạo đức sinh thái, bởi vì cuộc sống trong những thành phố hiện đại ngày nay đòi hỏi sự cá nhân hoá về thời gian. Kairos với tư cách là những khoảnh khắc (instants) mang tính giá trị luận là đối tượng cơ bản của những vấn đề đạo đức.
Nghiên cứu đạo đức sinh thái phải được phát triển với sự đóng góp của các khoa học liên ngành và triết học. Trong một xã hội toàn cầu hoá được hệ thống hoá bởi Internet vấn đề về quyền con người nhất thiết phải được suy ngẫm.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường