Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua sự hiện diện của tờ báo
Xem thêm >>Đọc lại Mác về báo chí tự do
1. Năm 1867, trong Tế cấp bát điều (Tám điều cần làm gấp), Nguyễn Trường Tộ đặt vấn đề: “Ấn hành một tờ nhật báo, đăng tải các chiếu, chỉ, sớ, dụ, những việc làm của các bậc có tiếng tăm, những công vụ của quốc gia hiện thời cho học sinh đọc để biết công việc trong nước”[1]. Một đề xuất thể hiện viễn kiến của một nhà cách tân. Tuy nhiên, như thực tế lịch sử cho thấy, ở vào thời điểm ấy, không có cơ hội để một ý tưởng như thế trở thành hiện thực. Lý do: tờ báo, sự hiện diện của nó, là thuộc về một cấu trúc xã hội và văn hóa khác hẳn với tình hình thực tiễn của Việt Nam lúc bấy giờ. Mặc dù luôn có quan hệ mật thiết với những vấn đề kỹ thuật và công nghệ nhưng sự hình thành và phát triển của báo chí là một hiện tượng, trước tiên và gốc rễ nhất, được nhận diện trong mối quan hệ chiều sâu với những yếu tố về văn hóa, cơ cấu chính trị. Ở phương Tây, báo chí hiện đại (từ 1787, đã được Burk mệnh danh là quyền lực thứ tư) hình thành, phát triển trên cơ sở của một chế độ dân chủ mà biểu hiện cụ thể là sự quan tâm ngày càng tăng của quần chúng nhân dân với những vấn đề về chính trị, xã hội. Điều này giải thích vì sao kỹ thuật in ấn, trên cơ sở sự phồn thịnh của các đô thị, đã phát triển rất mạnh từ thời Minh Thanh nhưng sự ra đời và hưng thịnh của hoạt động báo chí của Trung Quốc chỉ hình thành vào cuối thế kỷ XIX, trên cơ sở quan hệ mật thiết với các tô giới tại Thượng Hải - nơi mà tự do ngôn luận cởi mở hơn hẳn so với địa bàn mà chính phủ Trung Quốc quản lý. Thực tế lịch sử cho thấy, sự hình thành của báo chí ở các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng luôn có những quan hệ mật thiết với những ảnh hưởng từ phương Tây. Cụ thể hơn, ở các quốc gia nói trên, sự xuất hiện của báo chí là một chỉ số cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu chính trị và xã hội theo hướng phương Tây hóa mà một trong những đặc điểm nổi bật của nó là tinh thần dân chủ. Vậy nên, sự hiện diện của các hình thức thông tin kiểu như Quảng Văn Đình (thời Lê Thánh Tông) và Quảng Minh Đình (thời Gia Long) với chức năng: “niêm yết những phép tắc trị dân”, “dán những huấn lệnh của nhà vua”[2] chưa thể được xem là báo chí theo nghĩa đích thực bởi đó thuần túy chỉ là sự thông đạt từ bên trên trong một xã hội tuân thủ trật tự và tôn ti của Nho giáo.
Cần phải khẳng định một điều: người Pháp đến Việt Nam cố nhiên không phải để thiết lập một chế độ dân chủ. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu tiên của quá trình thực dân, với ý đồ xóa bỏ cơ tầng văn hóa bản địa để cấy vào đó một mô hình văn hóa được sao chép từ chính quốc (mà Sài Gòn là một thử nghiệm) đã đưa lại một sự đồng dạng nhất định, chí ít là trên cơ sở của những thiết chế, giữa hai nền văn hóa. Ở giai đoạn tiếp theo, khi những văn hóa bản địa được tôn trọng (nhằm lợi dụng từ trong truyền thống những nhân tố hữu ích cho việc vận hành một cách ổn định bộ máy cai trị) thì với những biến đổi về kinh tế sau hai cuộc khai thác thuộc địa đã kéo theo nó những thay đổi căn bản trong cấu trúc xã hội. Một minh chứng tiêu biểu: tại thời điểm này, người ta buộc phải ghi nhận sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu ở thành thị với một số lượng và vai trò văn hóa ngày một chiếm một tỷ lệ quan trọng. Đặc điểm của tầng lớp này đã được Đào Duy Anh khái quát một cách ngắn gọn: “Điều kiện sinh hoạt vật chất của họ dồi dào chừng nào thì lòng hâm mộ của họ đối với văn hóa Tây phương càng nồng nàn chừng ấy”[3]. Lẽ tự nhiên, tầng lớp dân cư này, trong bộ gen của mình, có sự tương thích đặc biệt với một môi trường sống mà ở đó tính chất dân chủ ít nhiều đã được tôn trọng và bắt đầu bén rễ. Cũng chính trong môi trường như thế, chỉ trong môi trường như thế (với sự trợ giúp đặc biệt của chữ quốc ngữ, cho dù vẫn tồn tại một dòng báo chí bằng chữ Hán và đặc biệt là Pháp ngữ) mà báo chí xuất hiện. Nói chính xác hơn thì đây là một quan hệ tương hỗ: báo chí thúc đẩy tư tưởng dân chủ phát triển và ngược lại những yếu tố dân chủ trong xã hội đã khiến báo chí phát triển nhanh chóng và có một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của xã hội.
2. Sự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”[4]. Danh xưng ký giả thời kỳ ấy thậm chí còn danh giá hơn cả ấn tri huyện. Đây là lý do khiến Tản Đà, năm 1916, khước từ lời mời vào học đặc cách của Giám đốc trường Hậu Bổ[5] để lựa chọn con đường trở thành một ký giả, một nhà báo (chứ không phải là một nhà văn theo nghĩa hiện đại như vẫn thường được quan niệm).
Một điều thú vị là, mặc dù báo chí, như trên đã nói, có gốc rễ từ truyền thống văn hóa phương Tây, thì ngay ở chính quê hương của nó, trong một thời gian dài, người làm báo không phải là một danh xưng đáng kể. Cho đến tận cuối thế kỷ XVIII, kể cả những nước phát triển nhất như Anh, Pháp thì công cụ ưu tiên để phát biểu tư tưởng vẫn là sách, “báo chí vẫn còn thụ động, chỉ phản ánh thế giới; nó chỉ tường thuật mà không thật sự nêu vấn đề, nhường quyền chiến đấu cho sách. Ở thế kỷ XVIII, người làm báo là nhân vật bị coi rẻ, và dưới mắt giới thượng lưu xã hội và trí thức, báo chí được coi như thứ văn chương hạ cấp vô giá trị và không uy tín”. Rousseau coi đó là một “công trình chốc lát, vô giá trị và vô bổ, người có học thức đọc qua quít và coi thường, chỉ đàn bà và những kẻ ngu ngốc đọc để khoe mẽ” và Diderot đánh giá là: “ tai họa và nỗi chán ngán của những người làm việc thật sự. Chúng chẳng bao giờ giúp cho người tốt viết được một dòng chữ tốt, cũng không ngăn nổi một tác giả tồi viết một tác phẩm tồi”[6]. Một đối sánh hết sức sơ lược như thế cho thấy: nếu như báo chí (công nghệ, thiết chế văn hóa) là ngoại nhập thì nhà báo (một nhân vật văn hóa) lại cần phải được nhận diện và cắt nghĩa từ chính những đặc điểm của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ. Và theo chúng tôi, nhà báo là nhân vật văn hóa cho thấy sự mở đầu cho một tầng lớp trí thức hiện đại, một sự tiếp biến của mô hình nhân cách kẻ sĩ từ truyền thống đến hiện đại.
Điểm tương cận giữa nhà báo và kẻ sĩ, như trên đã nói, là vị thế của một nhóm tinh hoa có khả năng là đại diện cho đời sống tinh thần cộng đồng. Hẳn phải có lý do để Phạm Quỳnh, năm 1917, sau khi đưa ra một thực tế: “Lắm nước như nước Pháp, nước Anh, dư luận (do nhà báo khởi xướng - TVT chú) thật là giữ quyền chúa tể trong nước, chi phối cả cuộc sinh hoạt quốc dân về chính trị, xã hội, kinh tế”đã hồ hởi tuyên bố: “Nước Nam ta sau này hay hay dở, các nhà báo cũng có phần vào đấy”[7]. Quả thực, báo chí với khả năng tác động sâu rộng của nó đến các tầng lớp trong xã hội là một lợi khí để tiếp lực cho những tư tưởng thâm nhập vào thực tiễn đời sống. Không ít những tờ báo đã đóng vai trò như là trung tâm của sự diễn tiến tư tưởng xã hội. Lục Tỉnh Tân Văn là tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân với những tên tuổi của Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản. Đăng Cổ Tùng Văn là cơ quan ngôn luận của Đông Kinh Nghĩa Thục - những nhà chí sĩ cũng đồng thời là những nhà báo. Phong trào Âu hóa rầm rộ những năm 30 được xúc tiến dưới sự dẫn đạo của Nguyễn Tường Tam và những yếu nhân của Phong Hóa và Ngày Nay... Hoàn toàn có thể nhận thấy một sự tương đồng như thế khi ta nói đến Lương Khải Siêu, Lỗ Tấn của Trung Quốc hay Fukuzawa Yukichi của Nhật bản với những tờ báo mà họ tham gia hay khởi xướng.
Tuy nhiên, những khác biệt lại là nhân tố quan trọng để nhà báo xuất hiện với tư cách là một mẫu hình của người trí thức hiện đại.
Trong truyền thống, kẻ sĩ khi đỗ đạt thì lập tức trở thành trí thức quan liêu. Phẩm chất trí thức, như thế, không phải là đích tối hậu mà chỉ là một tiền đề để gia nhập vào đội ngũ quan lại. Xã hội phong kiến với tính chất tôn ty chặt chẽ không cho phép một mặt bằng tồn tại cho mọi nhân cách. Vì lẽ đó, ông quan vẫn chỉ là một thứ - nhân cách, bị chế định và bị quy chiếu vào một nhân cách cao hơn: thiên tử. Quan lại cai trị dân, là “phụ mẫu chi dân” nhưng trong quan hệ với thiên tử ông ta chỉ là một thần tử với những bổn phận và khuôn phép đã được quy định trước, không thể việt vị. Nếu như đòi hỏi tối cao của người trí thức là truy cầu chân lý và vì thế thường đóng vai trò phản biện đối với trật tự xã hội hiện tồn thì chức phận của một ông quan lại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu phẩm chất của chữ trung. Với trật tự hiện hành, ông quan có thể dâng biểu tấu, điều trần, thậm chí đàn hặc nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về thiên tử. Lịch sử đã ghi lại đây đó những lời can gián thật thống thiết của những danh thần nhưng, như thực tế đã xác nhận, phần lớn chúng đều chỉ là những lời độc thoại. Và thường thì việc can gián cần phải được tiến hành với rất nhiều những nghi thức. Tận cho đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ, dù không bị ràng buộc bởi cân đai của một triều thần, khi dâng bản điều trần phê phán lối học tập hư văn, phù phiếm mà theo ông triều đình phải chịu một phần trách nhiệm vẫn phải có những lời rào đón, thăm dò với không ít những e dè[8]. Chẳng những thế, những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ chỉ được biết đến một cách hạn chế bởi Tự Đức và một vài đại thần cao cấp của triều đình. Những do dự và biến động chính trị đã khiến những tâm huyết của Nguyễn Trường Tộ bị lãng quên. Một tư tưởng lớn không thể tìm đường để đến với thực tiễn. Bi kịch lớn nhất của kẻ sĩ với tư cách trí thức quan liêu, đúng như Trần Nho Thìn đã chỉ ra qua trường hợp của Nguyễn Trãi, là ở chỗ: luôn “có nguy cơ bị biến thành một công chức đơn thuần, thừa hành lệnh trên, một thứ chuyên viên cao cấp chứ không phải là một nhà văn hóa chính trị”[9].
Không phải kẻ sĩ nào cũng có cơ may tham gia vào đội ngũ trí thức quan liêu. Phần lớn họ tồn tại trong dân gian với cương vị thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý... Không gian để họ hành xử: trong biên giới của một làng xã cụ thể; ngoài những tác nghiệp nghề nghiệp họ chủ yếu tác động đến đời sống cộng đồng bằng cách nêu gương từ chính những ứng xử của mình trong cuộc sống. Cũng có khi họ đóng vai trò tạo lập và hướng đạo cho dư luận để đối đầu với quan lại khi những bậc cha mẹ dân này không thực hiện đúng chức trách của mình. Khả năng tác động của họ đến thực tiễn, trong trường hợp này, có thể thường xuyên hơn, đa dạng hơn nhưng vì ở một vị thế thấp hơn trên bảng thang thứ bậc xã hội nên phạm vi, và tính chất tác động cũng khiêm tốn hơn; tuy liên tục trong thời gian nhưng không thoát khỏi tính chất nhỏ lẻ.
Như thế: trong cả hai trường hợp tồn tại của kẻ sĩ trong xã hội truyền thống ta không thấy những cơ sở cho phép họ tồn tại với tư cách người sản xuất những tư tưởng, tìm kiếm chân lý (một thuộc tính quan trọng bậc nhất của người trí thức hiện đại). Chẳng những thế, bị mặc định trong thân phận của một thần tử, nhân cách của kẻ sĩ luôn bị quy chiếu, tòng thuộc vào thiên tử khiến cho sự độc lập, chủ động, năng động của họ trước những vấn đề của thực tiễn đời sống bị giảm thiểu. Câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Chừng nào thánh đế ơn soi thấu không hề là một sáo ngữ mà là một thực tế nghiệt ngã của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến.
Báo chí đem lại một không gian mới cũng như một khả năng mới trong tác động đến thực tiễn của nhà báo với tư cách một nhân vật văn hóa và từ đó mở đường cho một mô hình nhân cách với những thuộc tính của người trí thức trong xã hội hiện đại.
Thứ nhất, báo chí tác động đến thực tiễn xã hội một cách trực tiếp. Sự nghiệt ngã của chế độ kiểm duyệt của nhà nước bảo hộ, dù thế nào chăng nữa vẫn luôn có kẽ hở trước một thực tiễn báo chí sinh động. Những tư tưởng của nhà báo vì thế luôn tìm được đường đến với công chúng. Dù chỉ tồn tại với một số báo duy nhất thì tư tưởng của những người cầm bút tờ Le Nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn vẫn để lại tiếng vang của nó trong đại chúng. Số lượng lớn của những tờ báo, đặc biệt là báo chí tư nhân cũng là một không gian rộng lớn để những ký giả xuất hiện với những tư tưởng mà họ theo đuổi truy tìm. Điều này giải thích vì sao nếu trước tác của kẻ sĩ xưa chủ yếu là với tư cách của một văn thần (khi thừa mệnh, phụng chỉ chấp bút những văn bản hành chức năng) hoặc với tư cách một văn nhân, một nghệ sĩ tài hoa trong ngôn từ mà không mấy khi hiện diện với tư cách của một nhà tư tưởng, nhà chính trị với chính kiến độc lập thì thời kỳ này tên tuổi của những Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Hòe... chủ yếu được biết đến với những tư tưởng, chủ thuyết mà họ đề xuất.
Mặt khác, công chúng của tờ báo khiến cho viết báo trở thành một nghề. Nếu như ông quan luôn bị ràng buộc bởi ơn mưa móc, bổng lộc từ thiên tử và vì thế không thể giữ một vai trò phản biện cho trật tự xã hội hiện hành thì nhà báo có điểm tựa từ công chúng để đối diện với bộ máy quyền lực. Người trí thức đến đây đã thoát khỏi thân phận ký sinh vào tồn tại của ông quan để giải phóng năng lực tư duy độc lập, khả năng bén nhạy trong việc nhận diện và phản biện về những tồn tại của thể chế xã hội đương thời.
Qua chân dung của nhà báo với những phác họa sơ lược trên có thể thấy báo chí như là môi trường và là một trong những nguyên nhân quan trong nhất cho sự xuất hiện của một mẫu hình mới: người trí thức trong xã hội hiện đại.
3. Những trình bày về tờ báo và nhà báo như trên cho thấy báo chí là trung tâm của đời sống cộng đồng suốt nửa đầu thế kỷ XX. Điều thú vị là nền văn học mới đã ra đời trên nền cảnh của hoạt động báo chí. Lịch sử của nền văn học mới và lịch sử báo chí dường như ăn khớp với nhau trên những chặng mốc chính. Sự tác động của báo chí đến văn học thật to lớn và sâu sắc trên rất nhiều phương diện.
Ngay từ những tờ báo đầu tiên như Nông cổ mín đàm (1901) người ta đã thấy sự hiện diện của những tác phẩm văn học (từ dich thuật, sưu tầm văn học dân gian đến những sáng tác đích thực) nhằm đáp ứng một nhu cầu mới mẻ của công chúng đầu thế kỷ. Và trên đại thể, phần lớn các tác phẩm văn học nửa đầu thế kỷ đều được đăng tải trên báo trước khi biết đến hình thức của cuốn sách. Người đọc bình dân có thể không mua sách - một hình thức tương đối trịnh trọng, một thông tin quá chuyên biệt với họ. Nhưng tờ báo lại là chuyện khác. Giản tiện hơn, đáp ứng một cách đa dạng hơn những nhu cầu thông tin của độc giả: người ta có thể đọc văn học bên cạnh những thông tin khác về xã hội, kinh tế, quảng cáo... chỉ với một tờ báo. Hầu như những tờ báo có sức phổ cập lớn bao giờ cũng có trang, mục dành riêng cho văn học với những thể loại rất đa dạng: thơ - phóng sự - truyện ngắn - tiểu thuyết được đăng dưới hình thức nhiều kỳ... Bằng cách ấy, theo thời gian, báo chí đã góp phần hình thành nên nhu cầu thưởng thức văn học như một nhu cầu thiết yếu của tầng lớp trung lưu ngày một thêm đông đảo trong xã hội. Trên cơ sở này mà đội ngũ độc giả chuyên nghiệp ra đời và theo quy luật cung cầu của kinh tế thị trường mà kích thích sự xuất hiện của đội ngũ những nhà văn chuyên nghiệp.
Đến đây phải dừng lại để nói rõ hơn về một đặc điểm của nhà văn ở nửa đầu thế kỷ XX: luôn có sự quan hệ mật thiết với những phẩm chất của một nhà báo. Dù vẫn có những ranh giới khá rõ ràng giữa nhà văn và nhà báo nhưng rất nhiều khi người ta thấy sự sóng đôi của hai phạm trù này ngay trong một cây bút cụ thể. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là nhà báo với những chủ thuyết xã hội, vói những nghị luận của mình nhưng khi cầm bút để dịch thuật, viết những thiên ký sự thì họ lại là một nhà văn. Tản Đà là nhà thơ khi ông sáng tác Khối tình, là nhà tiểu thuyết khi viết Giấc mộng con nhưng ông còn là nhà báo với vai trò chủ bút của An nam tạp chí. Không nên nghĩ đây chỉ là mô hình của buổi đầu phôi thai báo chí và văn học mới. Đặc điểm trên là một truyền thống kéo dài. Hàn Mặc Tử là nhà thơ khi cho in tập Gái quê nhưng khi cầm bút châm biếm về một ông nghị nào đó thi ông lại là một nhà báo. Ngô Tất Tố khi viết tiểu phẩm là nhà báo nhưng khi viết Tắt đèn thì lại là một nhà văn. Không thể đồng nhất hai phương diện này nhưng rõ ràng giữa chúng có những quan hệ qua lại mật thiết. Sự tham dự của con người nhà báo đã mài sắc tinh thần chiến đấu, kích thích khả nằng quan tâm và đề xuất những tư tưởng xã hội của nhà văn. Ở dạng điển hình và tiêu biểu nhất là sự xuất hiện mô hình nhà văn - nhà xã hội - chính khách mà Nguyễn Tường Tam, linh hồn của Phong Hóa và Ngày Nay, là một minh chứng tiêu biểu.
Không chỉ hình thành nên đội ngũ độc giả và nhà văn chuyên nghiệp, báo chí còn chi phối đến những thuộc tính chiều sâu của văn học thời kỳ này. Chí ít có thể kể đến hai đặc điểm sau:
Thứ nhất: không thể hình dung đến báo chí mà không có độc giả, đặc biệt là độc giả đại chúng.Tồn tại trong môi trường báo chí, văn học tất yếu cũng hướng đến đội ngũ độc giả này. Đây là đặc điểm quan trọng để khu biệt văn học hiện đại và văn học trung đại vốn mang đậm tính chất đặc tuyển.
Thứ hai: chức năng hàng đầu của báo chí là cung cấp những thông tin thời sự, những vấn đề đang xảy ra, mắt thấy tai nghe hàng ngày. Gắn với tờ báo văn học không thể không bị cảm quan về cái hiện tại, cái thường nhật này chi phối mà phóng sự là một thể loại tiêu biểu. Cần phải nhắc lại ở đây một đặc điểm của văn học trung đại đã được B. Xuskov tổng kết: xu hướng “nhân đôi thực tế, xu hướng nhìn thấu sau cái vỏ ngoài của thế giới thực tại sờ sờ trước mắt người nghệ sĩ một thực tại khác”[10]. Chính vì thế với nhà văn trung đại cái chi phối lớn nhất đối với người cầm bút là ở chỗ: anh ta muốn nhìn thấy đằng sau hiện thực của tác phẩm một hiện thực khác, phổ biến và bất biến trong thời gian. Nói cách khác, hiện thực trong tác phẩm là một hiện thực ít nhiều thoát ra khỏi giới hạn của một hiện thực cụ thể, hiện thực của thời hiện tại để hướng đến một hiện thực mang màu sắc tiên nghiệm đã được khuôn vào trong những phạm trù bất biến. Cùng với tính đặc tuyển, sự mờ nhạt trong cảm quan về thời hiện tại là đặc điểm đã ngự trị trong văn học Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Phải nhìn từ thực tế này mới thấy hết ý nghĩa của tính đại chúng, của cảm quan thời sự, cảm quan hướng tới hiện thực đang diễn ra trong cuộc sống thường ngày mà báo chí đã đem đến cho văn học có một ý nghĩa mỹ học thật sự to lớn.
Tóm lại nói về ảnh hưởng của phương Tây trước đây người ta thường nhấn mạnh đến sự tác động thường được nhìn nhận qua những cuốn sách, những nhà tư tưởng, những trào lưu văn học cụ thể. Nhưng những thiết chế còn quan trọng hơn nữa. Những thiết chế văn hóa chính là cơ chế tạo nên sự biến đổi trong chiều sâu trong qua trình hội nhập và giao lưu văn hóa.
11-X-06
[1] Trương Bá Cần - Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo - Nxb TPHCM - 1988 - tr.257
[2] Đỗ Quang Hưng - Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 - Nxb ĐHQGHN - 2001- tr.8-9
[3] Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương - Nxb Văn hóa thông tin - 2002 - tr.401
[4] Xem Huỳnh Văn Tòng - Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1945 - Nxb Thành phố HCM - 2000 - tr.355
[5] Đây là trường có chức năng đào tạo quan lại cho nhà nước bảo hộ. Chính Tản Đà, năm 1912, với tham vọng đoạt ấn tri huyện làm đồ sính lễ để kết duyên với người đẹp phố Hàng Bồ đã ứng thí vào trường này nhưng bị loại vì môn vấn đáp tiếng Pháp.
[6] Pierre Albert - Lịch sử báo chí - Nxb Thế giới - HN 2003 -p.16
[7] Phạm Quỳnh - Nghĩa vụ nhà làm báo - Thượng chi văn tập- tập 1 - Bộ quốc gia giáo dục 1962 - tr.60, 65
[8]“Nói về học thuật mà không có đường lối sáng suốt rõ ràng, một phần do ở sách vở và một phần tại Triều đình. Tuy nhiên tôi chưa dám nói rõ, sợ có điều quan ngại ( Nếu đừng bắt tội mà cho phép nói, tôi sẽ nói rõ -TVT nhấn mạnh)” - Trương Bá Cần - Tlđd - tr. 250
[9] Trần Nho Thìn - Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa - Nxb Giáo dục 2003 - tr.88
[10] B. Xuskov - Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực - NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà nội, 1980- tr.41
Nội dung khác
7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhVề tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
09/05/2008Phong Doanh