Sự trỗi dậy của các trường đại học Châu Á
Sự trỗi dậy của các trường đại học Châu Á là một chủ đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm rất lớn của cả phương Tây lẫn các nước châu Á, không chỉ trong giới giáo dục đại học mà còn trong giới chính trị và quản lý nhà nước, do tầm quan trọng của nó đối với việc đổi thay bản đồ địa chính trị trên thế giới. Vì vậy bài Diễn thuyết Thường niên Lần thứ bảy của giáo sư Richard Levin, do Viện Nghiên cứu Chính sách Giáo dục Đại học của Anh tổ chức vào tháng 2-2010 về chủ đề này là một bài viết hết sức đáng chú ý . Giáo sư Levin là một tên tuổi lẫy lừng của giáo dục đại học Hoa Kỳ, hiệu trưởng đương nhiệm của Đại học Yale từ năm 1993. Ông nhấn mạnh triển vọng phát triển của các đại học Châu Á. Tuy nhiên, giáo sư Philip Altbach, Giám đốc Trung tâm Giáo dục Đại học của Đại học Boston, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục So sánh của Hiệp hội Giáo dục Quốc tế và So sánh Hoa Kỳ, thì có quan điểm khác. Theo giáo sư Altbach, hiện tượng trỗi dậy của các đại học châu Á cần được nhìn nhận toàn diện hơn. Ông đã viết về những “gót chân Achille” của châu Á trong bài “Phải chăng đây là thế kỷ của giáo dục đại học châu Á?”. Để mang lại cái nhìn nhiều chiều cho người đọc, Bản tin Thông tin Giáo dục Quốc tế và So sánh số 5 của Trường Đại học Hoa Sen xin giới thiệu cả hai bài của hai tác giả. Ban biên tập và người dịch trân trọng cảm ơn giáo sư Altbach, giáo sư Levin và Tạp chí Foreign Affairs, nơi giữ bản quyền bài viết của GS. Levin đã cho phép Đại học Hoa Sen dịch sang tiếng Việt và sử dụng bài viết này cho Bản tin.
Lời người dịch
>> Mời xem bản tiếng Anh tại đây
Tôi rất vui được có mặt nơi đây cùng quý vị tối nay, và thật là một vinh dự lớn lao cho tôi khi được mời trình bày bài Diễn thuyết Thường niên Lần thứ bảy tại Viện Nghiên cứu Chính sách Giáo dục Đại học.
Tôi đứng trước mặt các bạn hôm nay với tư cách là người đại diện của một trường đại học lâu đời đứng hàng thứ ba của Hoa Kỳ, chỉ cách hai trường lâu đời nhất trong thế giới nói tiếng Anh chưa đầy 50 dặm. Ngày nay, những trường đại học mạnh nhất của Anh và Mỹ – như Oxford, Cambridge và Yale, chưa kể Harvard, Stanford, Berkeley, MIT, University College London và Imperial College London – gợi lên sự ngưỡng mộ và kính trọng trên toàn thế giới do vai trò lãnh đạo của họ trong nghiên cứu và đào tạo. Đứng trên đỉnh cao của các bảng xếp hạng toàn cầu, các trường này định ra các tiêu chuẩn để những trường khác trong nước và ở nước ngoài nhằm vào đó mà cạnh tranh ; họ định nghĩa khái niệm “đại học đẳng cấp quốc tế”; họ sở trường về những tiến bộ trong tri thức của nhân loại về tự nhiên và văn hóa; họ đưa ra những chương trình đào tạo tốt nhất cho thế hệ học giả kế tục; họ đem lại một quá trình giáo dục ở bậc đại học cũng như giáo dục chuyên ngành xuất sắc nhất cho những người rồi đây sẽ nổi bật như những người đi đầu trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Nhưng, như tất cả chúng ta đều biết, vào lúc này, khởi đầu của thế kỷ 21, phương Đông đang trỗi dậy. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của châu Á từ sau Thế chiến Thứ hai– bắt đầu với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, tiếp đó là Hong Kong và Singapore, và cuối cùng tập trung mạnh mẽ ở Trung Hoa lục địa và Ấn độ – đã làm thay đổi cán cân quyền lực trong kinh tế toàn cầu và do đó làm thay đổi bản đồ địa chính trị. Các quốc gia phương Đông đang trỗi dậy đều nhận ra tầm quan trọng của lực lượng lao động trình độ cao như một phương tiện tạo ra tăng trưởng kinh tế và hiểu rất rõ tác động của nghiên cứu trong việc dẫn dắt đổi mới và tăng cường sức cạnh tranh. Trong các thập kỷ 60,70 và 90, lịch trình hoạt động giáo dục của những nước phát triển sớm ở châu Á– Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan– trước hết là tăng số người được học hết bậc trung học. Trọng tâm ban đầu của họ là mở rộng số trường, số người vào học, và họ đã đạt được những kết quả hết sức ấn tượng.
Ngày nay, các nước đang phát triển muộn hơn và lớn hơn nhiều– Trung Quốc và Ấn Độ– có một kế hoạch hành động thậm chí còn đầy tham vọng hơn nhiều. Cả hai lực lượng mới này đang tìm cách mở rộng năng lực hệ thống giáo dục đại học của mình, và Trung Quốc đã làm được điều này một cách hết sức ngoạn mục kể từ năm 1998. Nhưng họ cũng đồng thời có tham vọng muốn tạo ra một số trường đại học “đẳng cấp thế giới” để chiếm lấy một vị trí trong số những trường hàng đầu. Đây là một kế hoạch táo bạo, nhưng Trung Quốc, một cách cụ thể, có ý chí và nguồn lực đủ để làm cho điều đó trở thành có khả năng thực hiện được. Tham vọng này không chỉ được nhiều nước ở châu Á chia sẻ, mà cả một số nước giàu tài nguyên ở Trung Đông cũng thế.
Ta thử điểm qua một số diễn tiến gần đây:
Ở các nước vùng Vịnh, người ta đã tiêu hàng trăm triệu đô la Mỹ vào việc mở các chi nhánh của những trường hàng đầu ở Hoa Kỳ và châu Âu, chẳng hạn Cornell ở Qatar và Sorbonne ở Abu Dhabi.
Mùa thu vừa rồi, Trường Đại học Bách Khoa mang tên Hoàng đế Abdullah đã được thành lập ở Saudi Arabia. Quỹ hiến tặng 10 tỷ đô la Mỹ của trường này còn vượt xa tất cả mọi trường đại học Mỹ ngoại trừ năm trường đứng đầu về quy mô của quỹ hiến tặng.
Ở Singapore, đang có kế hoạch xây dựng một trường công về Kỹ thuật và Thiết kế, cùng với một trường khoa học nhân văn theo kiểu Mỹ, liên kết với National University.
Ở Trung Quốc, chín trường đại học nhận ngân sách bổ sung của nhà nước để tăng cường cạnh tranh toàn cầu gần đây đã tự xác định mình là C9– Nhóm các trường đại học hàng đầu của Trung Quốc.
Ở Ấn Độ, gần đây Bộ Giáo dục đã công bố dự dịnh xây dựng 14 trường đại học tổng hợp với “đẳng cấp thế giới”.
Hôm nay tôi muốn thảo luận về động lực của những thử nghiệm xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế, những trở ngại thực tế phải vượt qua, và tiềm năng thành công của những thử nghiệm ấy. Do bối cảnh của Trung Đông rất khác, tôi sẽ giới hạn sự chú ý của mình trong các nước châu Á.
Có những xu hướng quan trọng khác đang thay đổi bản đồ giáo dục đại học toàn cầu: sự gia tăng nhanh chóng của dòng chảy sinh viên xuyên biên giới, sự mở rộng số lượng các cơ sở vệ tinh do những trường đại học Hoa Kỳ và Châu Âu thành lập ở các nước khác, sự xuất hiện các nhà đầu tư giáo dục vì lợi nhuận cả trong lĩnh vực đào tạo tại chỗ và đào tạo từ xa, và nhu cầu khẩn thiết phải tăng cường giáo dục đại học trong những nước nghèo nhất thế giới, nhất là ở châu Phi vùng cận Saharan. Tôi không có đủ thời gian để nói về toàn bộ khu vực này, vì vậy tôi sẽ tự giới hạn mình trong việc phân tích triển vọng tiềm năng của các trường đại học đẳng cấp quốc tế đang phát triển ở châu Á. Chủ đề rộng hơn– hiện tượng toàn cầu hóa giáo dục–là chủ đề của một cuốn sách mới rất hay sẽ được Nhà Xuất bản Princeton xuất bản mùa xuân năm nay của tác giả Ben Wildavsky, có nhan đề Cuộc đua Chất xám.
Tham vọng Châu Á: Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho mọi người
Trong giai đoạn đầu phát triển của châu Á thời hậu chiến, người ta hiểu rất rõ mở rộng cơ hội vào đại học là điều kiện tiên quyết của phát triển kinh tế bền vững. Một lực lượng lao động được đào tạo tốt và có văn hóa là thành tố cơ bản đã làm thay đổi Nhật Bản và Hàn Quốc trong nửa thế kỷ qua, trước hết là từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và sau đó là công nghệ kỹ thuật cao. Với nguồn đầu tư đáng kể của nhà nước, năng lực của hệ thống giáo dục ở cả hai quốc gia này đã mở rộng rất nhanh chóng. Tổng số tỉ lệ nhập học, tỉ lệ sinh viên đại học trên số người trong độ tuổi đã tăng từ 9 phần trăm ở Nhật năm 1960 đến 42 phần trăm giữa những năm 1990. Ở Hàn Quốc, mức tăng thậm chí còn ngoạn mục hơn, từ 5 phần trăm năm 1960 đến trên 50 phần trăm giữa những năm 1990.
Trong giai đoạn đầu này, Trung quốc và Ấn Độ còn tụt hậu khá xa. Cho đến giữa những năm 1990 chỉ 5 phần trăm thanh niên trong độ tuổi ở Trung Quốc được vào đại học, đặt Trung Quốc ngang hàng với Bangladesh, Botswana, và Swazilvà. Ở Ấn Độ, tuy có những nỗ lực sau chiến tranh nhằm trước hết xây dựng một số đại học tổng hợp quốc gia và sau đó là một số ít các trường tinh hoa, các Viện Khoa học Công nghệ Ấn Độ, tỉ lệ nhập học cũng chỉ là 7 phần trăm trong những năm 1990.
Đại học Bắc Kinh
Phát biểu trong Lễ Kỷ niệm 100 năm thành lập Đại học Bắc Kinh năm 1998, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân công bố quyết tâm của đất nước trong việc mở rộng hệ thống giáo dục đại học, và chính phủ đã biến điều này thành hiện thực– nhanh hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại. Đến năm 2006, Trung Quốc đã chi 1,5 phần trăm GDP của họ cho giáo dục đại học, gần ba lần so với một thập kỷ trước.
Kết quả của sự đầu tư này đã làm mọi người phải sửng sốt. Trong vòng một thập kỷ sau lời tuyên bố của chủ tịch Giang Trạch Dân, số trường đại học ở Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi, từ 1.022 đến 2.263. Trong khi đó, số sinh viên nhập học mỗi năm đã tăng gấp năm lần—từ 1 triệu sinh viên năm 1997 đến hơn 5,5 triệu sinh viên năm 2007.
Sự mở rộng này quả là chưa từng có tiền lệ. Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống giáo dục đại học có quy mô lớn nhất thế giới chỉ trong thời gian một thập kỷ. Trong thực tế, sự gia tăng số sinh viên vào đại học ở Trung Quốc từ khi bước sang thiên niên kỷ mới còn lớn hơn tổng số sinh viên vào đại học ở Hoa Kỳ.
Trung Quốc vẫn còn một đoạn đường dài để đạt được tham vọng của họ về mở rộng giáo dục đại học. Tuy con số vào đại học khổng lồ, tỉ lệ số người vào đại học trên số dân ở Trung chỉ là 23 phần trăm, so với 58 phần trăm ở Nhật Bản, 59 phần trăm ở Anh, và 82 phần trăm ở Hoa Kỳ. Sự mở rộng chậm lại từ 2006, do mối quan ngại về số lượng sinh viên đã vượt quá năng lực đáp ứng của đội ngũ giảng viên và duy trì chất lượng đào tạo ở nhiều trường. Tỉ lệ sinh viên-giảng viên đã tăng gần gấp đôi trong vòng thập kỷ qua. Nhưng số sinh viên nhập học sẽ tiếp tục tăng khi có thêm nhiều giáo viên được đào tạo, vì các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức rất rõ tầm quan trọng của lực lượng lao động được đào tạo tốt trong việc phát triển kinh tế.
Trường ĐH Thanh Hoa
Thành tựu của Ấn Độ cho đến nay không ấn tượng cho lắm, nhưng tham vọng của họ thì không hề thua kém. Ấn Độ đã là một quốc gia dân chủ lớn nhất trên thế giới. Trong vòng hai thập kỷ tới, họ sẽ là quốc gia đông dân nhất trên hành tinh này, và đến 2050, nếu duy trì được mức tăng trưởng, họ sẽ có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Để duy trì mức tăng trưởng ấy, Bộ trưởng Giáo dục Ấn, Kapil Sibal, đặt mục tiêu tăng tỉ lệ vào đại học ở Ấn từ 12 đến 30 phần trăm trước năm 2020. Mục tiêu của Sibal đã diễn giải sự gia tăng của 40 triệu sinh viên ở các trường đại học Ấn Độ trong thập kỷ tới– có lẽ họ còn có thể đạt đến một con số lớn hơn nữa, nhưng ngay cả dù chỉ đạt được một nửa thì đó cũng đã là một thành tựu lớn lao.
Tham vọng Châu Á: Xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế
Sau khi đạt được những tiến bộ to lớn trong việc mở rộng hệ thống giáo dục đại học, những quốc gia hàng đầu của châu Á giờ đây nhắm vào một mục tiêu thậm chí còn nhiều thử thách hơn: xây dựng các trường đại học cạnh tranh với những trường tốt nhất trên thế giới. Đây là một vị trí rất cao. Các trường đại học đẳng cấp quốc tế đã đạt được vị trí của họ bằng cách tập hợp các nhà khoa học và học giả hàng đầu trong lãnh vực chuyên môn của họ trên toàn cầu. Điều này cần có thời gian. Harvard và Yale đã mất hàng thế kỷ để đạt được vị trí ngang bằng với Oxford và Cambridge, và hơn nửa thế kỷ đối với Stanford và University of Chicago (cả hai được thành lập năm 1892) để đạt được uy tín đẳng cấp quốc tế. Trường đại học châu Á duy nhất được xếp trong top 25 các trường đại học hàng đầu thế giới là University of Tokyo, đã được thành lập năm 1877.
Tại sao Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Hàn Quốc công khai nêu ra tham vọng của họ trong việc nâng các trường đại học lên vị trí cao quý ấy? Tôi nghĩ có hai lý do. Trước hết, những nước đang phát triển nhanh chóng này nhận ra tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học dựa trên các trường đại học trong việc dẫn dắt sự tăng trưởng về kinh tế, nhất là từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Hai là, các trường đại học đẳng cấp quốc tế đem lại một hình mẫu lý tưởng về đào tạo con người cho những nghề nghiệp trong khoa học, công nghiệp, quản trị nhà nước, và cho xã hội dân sự, những người có chiều rộng trí tuệ và kỹ năng tư duy phản biện để giải quyết vấn đề, để cải cách, và để lãnh đạo.
Để tôi mở rộng thêm cả hai điểm nói trên. Mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn ở một giai đoạn phát triển mà họ có thể cạnh tranh hữu hiệu nhờ vào lao động giá rẻ, lao động nông nghiệp dư thừa của họ rốt cuộc sẽ tuôn về các thành phố lớn–như đã xảy ra ở Nhật Bản và Hàn Quốc – và rồi tiền công lao động sẽ bắt đầu tăng. Ở giai đoạn này, sẽ không thể duy trì tăng trưởng kinh tế nếu không có cải cách, nếu không biết tiếp thị sản phẩm mới, dịch vụ mới, nhiều thứ như thế là kết quả của nghiên cứu ứng dụng dựa trên nền tảng những tiến bộ về khoa học.
Để đơn giản hóa, hãy thử xem xét câu hỏi sau đây: Nhật Bản tăng trưởng nhanh hơn Hoa Kỳ một cách đáng kể trong khoảng thời gian từ 1950 đến 1990, vì số lao động dư thừa của họ được thu hút vào công nghiệp, và tăng trưởng chậm hơn Hoa Kỳ rất nhiều trong giai đoạn về sau. Bây giờ hãy thử xem xét liệu Nhật Bản có phát triển chậm như thế không nếu Microsoft, Netscape, Apple, và Google là những công ty Nhật Bản? Tôi nghĩ rằng không. Chính những cải cách dựa trên khoa học đã đưa nước Mỹ tăng trưởng nhanh chóng hơn Nhật Bản trong hai thập kỷ sau đó, trước khi suy sụp năm 2008. Chính là thất bại của Nhật Bản trong việc đổi mới công nghệ đã tạo ra sự tụt hậu của họ.
Các nước châu Á mới nổi nêu ra rất rõ trong chính sách quốc gia và kế hoạch của họ, mối liên hệ giữa xây dựng năng lực nghiên cứu bản địa và tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế tri thức hậu công nghiệp. Họ cũng công nhận rằng việc nghiên cứu dựa trên cơ sở các trường đại học là động lực hiệu quả nhất của khám phá khoa học và rút cục là, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, có liên quan về kinh tế với các công nghệ mới. Bởi vậy tham vọng của họ về các trường đại học nghiên cứu có khả năng làm việc trong những mũi nhọn khoa học và kỹ thuật theo tôi không phải là quá sớm. Với nhịp điệu đô thị hóa hiện nay, Trung Quốc sẽ bắt đầu mất lợi thế lao động giá rẻ trong khoảng hai thập kỷ nữa, và Ấn Độ cũng sẽ chạm tới cùng một điểm trong vòng một thập kỷ nữa mà thôi. Thời gian này cho cả hai nước đủ thời gian để tạo ra những tiến bộ vượt bậc trong xây dựng năng lực nhằm cạnh tranh hữu hiệu trong những đỉnh cao của tri thức.
Nhưng nó mất nhiều thời gian hơn là chỉ xây dựng năng lực nghiên cứu nhằm phát triển quốc gia. Nó đòi hỏi những công dân được giáo dục tốt, có quan điểm phóng khoáng và năng lực khởi nghiệp độc lập, cũng như có tư duy độc đáo. Đây là nhân tố thứ hai thúc đẩy tham vọng châu Á trong việc xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói riêng, đã công nhận hiển ngôn rằng trong các trường đại học của họ đang thiếu hai thành tố–chiều rộng đa ngành và sự nuôi dưỡng tư duy phản biện. Giáo dục đại học châu Á, giống với châu Âu nhưng không giống nước Mỹ, vốn có truyền thống chuyên ngành hóa rất cao. Sinh viên chọn một chuyên ngành, hay một lãnh vực nghề nghiệp gì đấy ở tuổi mười tám và học rất ít những gì ngoài chuyên ngành ấy. Và, không giống những chuẩn mực ở các trường đại học tinh hoa Âu Mỹ, phương pháp giảng dạy ở Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc dựa trên học vẹt một cách nặng nề. Theo truyền thống, sinh viên là những người nghe thụ động, hiếm khi thử thách lẫn nhau hay thử thách các giáo sư trong lớp học. Phương pháp giảng dạy tập trung vào việc làm chủ nội dung, chứ không phải phát triển năng lực tư duy độc lập và tinh thần phản biện. Cách tiếp cận của châu Á truyền thống đối với chương trình và phương pháp giảng dạy có thể thực hiện tốt chức năng đào tạo hàng lớp kỹ sư và viên chức chính phủ hạng trung, nhưng có lẽ không mấy thích hợp để đào tạo giới tinh hoa cho việc đổi mới công nghệ và lãnh đạo.
Thật lạ lùng là trong lúc các nhà chính trị gia Anh và Mỹ lo lắng rằng Châu Á, và đặc biệt là Trung Quốc, đang đào tạo ra nhiều nhà khoa học và kỹ sư hơn cả Anh Mỹ, thì Trung Quốc và các nước khác ở châu Á lại lo ngại rằng sinh viên của họ thiếu sự độc lập và tính sáng tạo để dẫn dắt đổi mới công nghệ, một điều rất cần cho tăng trưởng kinh tế bền vững về lâu về dài. Họ sợ rằng việc chuyên ngành hóa khiến sinh viên có cái nhìn hẹp, và cách dạy truyền thống châu Á khiến sinh viên thành ra thiếu trí tưởng tượng. Bởi vậy, họ khao khát tăng cường sức mạnh cho các trường đại học hàng đầu của mình bằng cách xem xét lại cả chương trình đào tạo lẫn phương pháp giảng dạy.
Điều kiện tiên quyết của Các trường đại học Đẳng cấp Quốc tế: Nghiên cứu
Chúng ta đã thảo luận về việc cái gì đã thúc đẩy châu Á tìm kiếm con đường xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế, bây giờ đến vấn đề tiếp theo: cần phải đạt được điều gì. Câu hỏi đầu tiên sẽ là: Cần có cái gì để xây dựng nên những trường đại học có năng lực thuộc hàng đẳng cấp quốc tế trong nghiên cứu? Trước hết và quan trọng hơn hết, nó đòi hỏi năng lực lôi cuốn các nhà khoa học và học giả tài giỏi nhất. Trong khoa học, điều này có nghĩa là thiết bị nghiên cứu hạng nhất, là ngân sách tương xứng để hỗ trợ nghiên cứu, và lương bổng cũng như điều kiện làm việc có tính cạnh tranh cao. Trung Quốc đang thực hiện đầu tư rất to lớn vào ba yếu tố đầu. Các trường đại học hàng đầu ở Thượng Hải– Fudan, Shanghai Jiaotong, và Tongji – đã xây dựng cơ sở nhà trường hoàn toàn mới trong vòng năm năm qua, với thiết bị nghiên cứu cực kỳ hiện đại, ở vị trí gần với các đối tác trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Ngân sách nghiên cứu tăng song song với việc mở rộng số lượng sinh viên, và các trường đại học Trung Quốc ngày nay đã cạnh tranh hữu hiệu hơn nhiều trong việc giành lấy những giảng viên tài năng. Trong những năm 1990, chỉ 10 phần trăm người Trung Quốc có bằng tiến sĩ trong khoa học và kỹ thuật ở Hoa Kỳ là quay về cố hương. Con số này giờ đây đang tăng, và càng ngày Trung Quốc càng tỏ ra có khả năng thu hút những nhà khoa học và học giả ở giữa độ tuổi đang phát triển nghề nghiệp và có biên chế ở các trường Anh Mỹ hồi hương. Những người này bị thu hút vì những điều kiện làm việc đã được cải thiện rất đáng kể và vì cơ hội tham gia vào sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ấn Độ cũng thế, đang bắt đầu có nhiều thành công hơn trong việc lôi kéo cộng đồng người Do Thái của mình, nhưng chưa làm được việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, ngân sách nghiên cứu, và thu nhập bổ sung cho những giảng viên đặc biệt xuất sắc như Trung Quốc đã làm.
Ngoài những điều kiện vật chất để thu hút giảng viên, một hệ thống phân phối ngân sách nghiên cứu hữu hiệu sẽ tạo điều kiện rất đáng kể cho việc xây dựng nội lực quốc gia trong những nghiên cứu hạng nhất. Nguyên tắc cơ bản của việc tạo ra một hệ thống như thế đã được trình bày rất sáng suốt trong bản báo cáo năm 1945 có tên Khoa học: Một Biên giới Vô tận, do Vannevar Bush, Cố vấn Khoa học của Tổng thống Truman trình bày. Bản báo cáo ghi nhận rằng những khám phá trong khoa học cơ bản rút cuộc là nền tảng của sự phát triển công nghệ kỹ thuật, nhưng nó lưu ý rằng thành quả kinh tế thu được từ những tiến bộ của khoa học cơ bản thường không sinh ra ngay trong vòng một vài thập kỷ mà thường là vào thời điểm tạo ra kết quả nghiên cứu cơ bản này người ta đã hoàn toàn không dự kiến trước được những lợi ích kinh tế có thể thu hoạch được từ việc ứng dụng những tiến bộ khoa học ấy. Khi những thuộc tính của sự cố kết ánh sáng được khám phá cuối những năm 50, không ai tưởng tượng được rằng lasers sẽ trở thành hữu dụng trong việc giải phẫu mắt sau đó vài thập kỷ. Bởi vì người phát minh ban đầu hiếm khi nắm bắt được những lợi ích kinh tế của một khám phá khoa học thuần túy, nên các doanh nghiệp tư nhân chẳng mặn mà gì đầu tư cho nghiên cứu cơ bản. Nhà nước phải nắm vai trò dẫn đầu này.
Bản báo cáo năm 1946 của Bush đã xây dựng một khuôn khổ cho hệ thống hỗ trợ nghiên cứu khoa học quốc gia đặt nền tảng trên ba nguyên tắc vẫn đang tiếp tục vận hành đến ngày nay. Một là, chính phủ liên bang chịu trách nhiệm chính về việc cung cấp ngân sách cho nghiên cứu khoa học cơ bản. Hai là, các trường đại học—chứ không phải chỉ các phòng thí nghiệm hoạt động bằng ngân sách nhà nước hay các viện nghiên cứu không có hoạt động đào tạo– là những tổ chức chủ yếu thực hiện các nghiên cứu được nhà nước tài trợ này. Ba là, mặc dù chính phủ xác định rõ tổng số tiền mà ngân sách tài trợ cho từng lĩnh vực khác nhau trong khoa học, những dự án và chương trình cụ thể không được đánh giá trên cơ sở chính trị hay thương mại, mà bằng một quá trình cạnh tranh quyết liệt qua bình duyệt của các nhà chuyên môn trong đó các chuyên gia độc lập đánh giá các dự án chỉ trên phẩm chất khoa học của nó mà thôi.
H ệ thống này đã tạo ra những thành công phi thường, vì nhiều lý do. Nó có lợi cho việc tạo điều kiện cho các nghiên cứu sinh, các nhà khoa học tương lai— thậm chí cả những người sẽ không theo đuổi nghiệp nghiên cứu lâu dài —được tiếp cận với những kỹ thuật và lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn vào loại bậc nhất. Nó cho phép sinh viên đại học được chứng kiến hoạt động khoa học của những người lỗi lạc thay vì chỉ được đọc về những cột mốc của tiến bộ khoa học thập kỷ qua trong sách giáo khoa. Và nó có nghĩa là những dự án tốt nhất sẽ dành được tài trợ nghiên cứu —chứ không phải những dự án do những giảng viên cây đa cây đề trong khoa, hay do những người có quan hệ chính trị tốt khởi xướng.
Những điều này chưa phải là một hệ thống được thực hiện trong việc tạo điều kiện cho nghiên cứu ở phương Đông. Về mặt lịch sử, phần lớn nghiên cứu khoa học ở Đông Á được thực hiện bên ngoài các trường đại học – trong các viện nghiên cứu và phòng thí nghiệm của nhà nước. Và ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, tài trợ chủ yếu hướng đến nghiên cứu và phát triển ứng dụng, với chỉ một phần rất nhỏ trong tổng số ngân sách dành cho nghiên cứu và phát triển được dùng cho nghiên cứu khoa học cơ bản. Ở Trung Quốc chẳng hạn, chỉ 5 phần trăm ngân sách R&D dành cho mục đích nghiên cứu cơ bản, so với 10 đến 30 phần trăm ở hầu hết các nước thuộc Tổ chức OECD. Diễn đạt dưới hình thức tương quan với GDP thì Hoa Kỳ đã chi một số tiền cho nghiên cứu cơ bản lớn gấp bảy lần so với Trung Quốc. Hơn thế nữa, cách sử dụng đẳng duyệt để quyết định việc tài trợ ở Đông Á trong trường hợp tốt nhất thì là không nhất quán, còn trong trường hợp xấu nhất thì là hoàn toàn thiếu hẳn. Về mặt lịch sử Nhật Bản đã đặt cược một phần rất lớn nguồn lực nghiên cứu của mình trong tay một số ít các nhà nghiên cứu uy tín nhất. Tuy cách đây nhiều năm họ đã nhận thức được rằng phần lớn ngân sách nghiên cứu nên được phân bổ thông qua đẳng duyệt, chỉ 14 phần trăm ngân sách nhà nước dành cho những nghiên cứu không liên quan tới quốc phòng trong năm 2008 được phân bổ thông qua quá trình đẳng duyệt có tính chất cạnh tranh, so với 73 phần trăm ở Hoa Kỳ.
Mặt khác, không còn nghi ngờ gì về việc các chính phủ Châu Á đã tăng mạnh ngân sách dành cho nghiên cứu và phát triển như một ưu tiên trong những năm gần đây. Ngân sách R&D ở Trung Quốc đã tăng rất nhanh trong hai thập kỷ vừa qua, từ 0,6 phần trăm của GDP năm 1995 đến 1,3 phần trăm của GDP năm 2005. Con số này vẫn còn thấp xa so với các nước phát triển trong OECD, nhưng đang tiếp tục leo dần lên cao. Nhà nước Trung Quốc đã đặt mục tiêu tăng ngân sách cho R&D đến 2 phần trăm của GDP trước năm 2010 và 2,5 phần trăm của GDP trước năm 2020. Và có nhiều chứng cứ cho thấy ngân sách nghiên cứu được chi ra đã thu lại những kết quả đáng đồng tiền bát gạo. Để đưa ra một đối sánh, từ 1995 đến 2005, các học giả Trung Quốc đã tăng số bài báo khoa học của họ trên các tạp chí hàng đầu về khoa học công nghệ lên gấp bốn lần. Chỉ Hoa Kỳ, Anh, Đức và Nhật là có nhiều công bố quốc tế hơn thế mà thôi.
Đại học Tokyo, xếp hạng 22, là thứ hạng cao nhất của các trường đại học châu Á
Điều kiện tiên quyết của các trường đại học đẳng cấp quốc tế: Đào tạo
Đã thảo luận về việc cần có những gì để xây dựng một năng lực đẳng cấp quốc tế trong nghiên cứu, giờ đây chúng ta hãy nói tới việc cần những điều kiện gì để thay đổi chất lượng đào tạo. Như tôi đã lưu ý trong phần trên, tham vọng của châu Á là xây dựng một lớp người tốt nghiệp từ các trường đại học tinh hoa, những người có tầm nhìn rộng và liên ngành, có năng lực tạo ra cải cách và đổi mới. Điều này đã dẫn các nhà lãnh đạo ở Trung Quốc, Singapore, và nhất là Hàn Quốc, nhìn vào các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ, những trường vốn rất khác với chuẩn mực châu Á cả về cấu trúc chương trình đào tạo lẫn kinh nghiệm giảng dạy.
Các nhà lãnh đạo Châu Á ngày càng bị mô hình đào tạo đại học Hoa Kỳ thu hút, một mô hình cho sinh viên hai năm để khám phá nhiều lãnh vực kiến thức trước khi chọn một chuyên ngành để tập trung học tập trong hai năm cuối. Có hai nguyên tắc cơ bản biện minh cho cách tiếp cận này. Một là, việc tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận đa ngành sẽ mang lại cho họ khả năng lựa chọn một cái nhìn về thế giới, điều này vừa giúp họ thực hiện tốt hơn lãnh vực chuyên môn đã lựa chọn, vừa chuẩn bị cho họ sẵn sàng để đương đầu với những vấn đề mới và không biết trước được. Lý do thứ hai là sinh viên ở tuổi hai mươi sẽ có khả năng chọn lựa chuyên ngành tốt hơn ở tuổi mười tám. Tôi sẽ không đẩy vấn đề này đi quá xa trong diễn đàn này, vì nhận định rằng sinh viên Oxford hay Cambridge quá non nớt để lựa chọn chuyên ngành ở tuổi mười tám không phải là kinh nghiệm của tôi. Nhưng tôi hoàn toàn không nghi ngờ gì về phẩm chất của mô hình này của Hoa Kỳ. Với tất cả những ưu điểm tốt nhất, nó đã tạo ra những kết quả tốt đẹp bằng cách mở rộng tầm nhìn của sinh viên một cách hữu hiệu.
Các trường đại học đẳng cấp quốc tế này phải vun đắp cho tư duy độc lập; tư duy phản biện là một quan điểm ít bảo thủ hơn nhiều. Ngay từ thế kỷ 19, triết lý về giáo dục khai phóng được tích lũy bắt đầu từ Cardinal Newman, đã cho rằng không phải tri thức chuyên ngành cụ thể mà là khả năng tiêu hóa thông tin và giải quyết vấn đề mới là đặc điểm quan trọng nhất của một người được đào tạo tốt, huống chi là trong nền kinh tế tri thức ngày nay. Báo cáo thường niên năm 1828 của Đại học Yale, một văn bản có ảnh hưởng lớn đến giáo dục đại học Mỹ, phân biệt rõ sự rèn luyện tinh thần khác với trang bị kiến thức như thế nào. Làm chủ được một lãnh vực tri thức cụ thể nào đó – nói cách khác là được “trang bị” – chẳng có bao nhiêu giá trị lâu dài trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng như ngày nay. Những sinh viên có tham vọng trở thành người lãnh đạo của các doanh nghiệp, của ngành y, ngành luật, hay nhà nước, hay trong khoa học, cần một tinh thần được rèn luyện– đó là khả năng thích nghi với những bối cảnh thường xuyên thay đổi, đương đầu với những sự kiện mới mẻ và tìm được những cách sáng tạo để giải quyết nó.
Việc vun đắp những thói quen này đòi hỏi một phương pháp sư phạm khuyến khích sinh viên không chỉ là người tiếp nhận thông tin thụ động mà phải học cách tự mình suy nghĩ, học cách xây dựng các lập luận và bảo vệ nó, hay điều chỉnh nó theo những thông tin mới hay theo những ý kiến phê phán đúng đắn. Các vị trợ giảng của Đại học Oxford-Cambridge có lẽ có thể coi là là khuôn mẫu của phương pháp sư phạm này. Nhưng hệ thống trợ giảng gần như là điều không thể hình dung ra được ở châu Á, chứ đừng nói gì trong bối cảnh lao động căng thẳng ở Mỹ. Thay vào đó người Mỹ dùng những buổi thảo luận có tương tác, trong đó sinh viên được khuyến khích phản biện và bảo vệ quan điểm của mình trong những nhóm nhỏ thay vì nhắm mắt chấp nhận quan điểm của giảng viên. Ngay cả một số môn học được dạy trong những hội trường lớn, vẫn có những buổi thảo luận nhóm được tổ chức để bổ sung cho bài giảng trên hội trường. Bài kiểm tra trong các trường đại học Mỹ hàng đầu ít khi nào đòi hỏi sinh viên liệt kê sự kiện dài dòng, mà đòi hỏi sinh viên giải quyết những vấn đề mà họ chưa từng đương đầu trước đó, hoặc phân tích hai mặt của một luận điểm và trình bày quan điểm của chính mình.
Trên con đường xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế của châu Á, đã có một phong trào ngoạn mục đi theo hướng phát triển chương trình đào tạo kiểu Mỹ. Đại học Bắc Kinh đã áp dụng Chương trình Tiên tiến năm 2001, một chương trình thí điểm đưa một nhóm chọn lọc những sinh viên tài năng nhất của Trung Quốc vào môi trường giáo dục khai phóng. Những sinh viên này sống cùng nhau và thử nhiều chuyên ngành khác nhau trong hai năm đầu trước khi chọn chuyên ngành chính. Đại học Yonsei University ở Hàn Quốc đã mở một khoa về khoa học nhân văn với chương trình đào tạo tương tự như thế; còn Đại học Quốc gia Singapore đã xây dựng Chương trình Học giả Đại học trong đó sinh viên có nhiều hoạt động mạnh mẽ ngoài chuyên ngành hẹp của họ.
Trong sáu năm qua, các hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, các bí thư Đảng của các trường đại học hàng đầu ở Trung Quốc, những người được sự ủng hộ đặc biệt của chính phủ, đã có chương trình gặp gỡ hàng năm với các nhà lãnh đạo và giảng viên của Đại học Yale trong một hội thảo dài một tuần lễ, để học hỏi kinh nghiệm của các trường Hoa Kỳ và chia sẻ trải nghiệm của chính họ trong việc cải cách chương trình, tuyển dụng giảng viên, và phương pháp giảng dạy. Dù tôi không khẳng định mối liên hệ nhân quả, nhưng những tiến bộ của họ trong việc cải cách chương trình đào tạo quả thật đáng kinh ngạc. Ở Đại học Phúc Đán, tất cả sinh viên giờ đây đều được học một chương trình đa ngành chung trong năm đầu trước khi tiến hành học về chuyên ngành của mình. Ở Đại học Nam Kinh, sinh viên không còn bị yêu cầu phải chọn ngành học khi nộp đơn vào trường nữa; thay vào đó họ có thể chọn trong số 60 môn học của giáo dục tổng quát trong năm đầu trước khi quyết định một ngành chuyên môn nào đó để theo học.
Thay đổi phương pháp giảng dạy thì khó hơn thay đổi chương trình đào tạo nhiều. Nó đòi hỏi tăng cường nguồn lực để có thể tổ chức những lớp học với sĩ số nhỏ hơn, nhưng cũng đòi hỏi giảng viên phải vận dụng những phương pháp mới. Đây là một thử thách to lớn ở Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc, nơi mà phương pháp sư phạm theo truyền thống châu Á vẫn đang thắng thế. Điều này gây ra ít quan ngại hơn nhiều ở Ấn Độ và Singapore, nơi ảnh hưởng di sản kế thừa của Anh Quốc đã tạo ra một tầng lớp giáo sư thoải mái hơn nhiều với việc lôi cuốn sự tương tác cuả sinh viên. Trung Quốc đặc biệt tha thiết với việc xử trí thách thức này, nhưng họ đã nhận ra rằng chìa khóa để thay đổi phương pháp sư phạm là tăng sự hiện diện của những giáo sư được đào tạo ở nước ngoài và đã quen với những phương pháp giảng dạy không dựa trên lối học vẹt của sinh viên. Tăng cường cơ hội giao lưu, nhờ đó sinh viên châu Á có thể học ở phương Tây và sinh viên phương Tây có thể trải qua một thời gian ở các trường đại học châu Á cũng sẽ giúp ích nhiều trong việc tăng tốc sự chuyển đổi.
Triển vọng thành công
Như chúng ta có thể thấy, xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế ở châu Á sẽ cần nhiều thứ hơn chứ không chỉ là tiền và quyết tâm. Để tạo ra năng lực đẳng cấp quốc tế trong nghiên cứu, nguồn lực không phải chỉ cần phải dồi dào, mà còn cần được phân bổ dựa trên phẩm chất ưu tú về khoa học chứ không phải dựa trên thâm niên hay ảnh hưởng chính trị. Để tạo ra năng lực đẳng cấp quốc tế về đào tạo, chương trình đào tạo phải được mở rộng và phương pháp sư phạm phải được thay đổi. Đó là tất cả những vấn đề có thể giải quyết được với ý chí chính trị và sự lãnh đạo đúng mức.
Một điều kiện tiên quyết khác để tạo ra thành công là sự tập trung cao độ. Không phải tất cả mọi trường đại học đều có thể hoặc cần phải trở thành trường đẳng cấp quốc tế. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Anh và Đức cho thấy rõ điều này. Ở Hoa Kỳ và Anh, giáo dục đại học là một hệ thống phân tầng gồm nhiều kiểu loại trường khác nhau, những trường đại học nghiên cứu tổng hợp chỉ là một loại trong đó mà thôi. Và trong hệ thống các trường đại học nghiên cứu, hỗ trợ của nhà nước cho nghiên cứu chủ yếu dựa trên phẩm chất khoa học của các dự án nghiên cứu, khiến một số trường thì phát triển hưng thịnh trong lúc những trường khác thì tuột lại đàng xa. Hệ thống phân bổ ngân sách nghiên cứu của nước Anh dựa trên phẩm chất mạnh mẽ hơn bằng cách tài trợ cho những dự án lớn đòi hỏi sự tham gia của nhiều tổ chức hơn là các dự án cá nhân, nhưng về nguyên tắc nó vẫn là một hệ thống dựa trên phẩm chất ưu tú. Ở Hoa Kỳ, hiện tượng vận động tài trợ làm cho khuynh hướng này càng mạnh hơn. Thành công này làm nảy sinh thành công khác, và, trong hầu hết mọi trường hợp, trường mạnh nhất sẽ thu hút phần lớn các khoản tiền thiện nguyện. Ở Đức, trái lại, chính sách nhà nước chế ngự các trường một cách thận trọng trong việc đạt đến sự khác biệt. Bằng chính sách mở trong tuyển sinh, cho phép tỉ lệ sinh viên/giảng viên tăng lên ở khắp nơi, cô lập hầu hết những nhà nghiên cứu lỗi lạc trong các viện nghiên cứu riêng rẽ, trong lúc đó lại phân bổ nguồn lực dựa trên sự bình đẳng thay vì dựa trên phẩm chất, chính phủ Đức đã hủy hoại sự ưu tú và danh tiếng lẫy lừng toàn cầu mà các trường đại học tốt nhất của họ đã từng có. Chỉ mới gần đây chính phủ Đức mới có quyết định tập trung nguồn lực vào ba trường đại học cụ thể nhằm tăng cường sức cạnh tranh toàn cầu của họ.
Nhật Bản và Hàn Quốc đã học được bài học này. Cả hai trường đại học hoa tiêu của quốc gia đều được hỗ trợ rất mạnh: Trường Đại học Tokyo và Đại học Quốc gia Seoul. Và ở Nhật Bản có ít nhất hai trường đại học công khác, Kyoto và Osaka, không thua kém Đại học Tokyo bao nhiêu và mạnh hơn nhiều so với các trường còn lại. Trung Quốc cũng nắm bắt được thông điệp này. Năm 1998, họ xác định bảy trường đại học để đầu tư đặc biệt: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Nam Kinh, Đại học Chiết Giang, và Đại học Giao thông Tây An. Và ngay trong vòng bảy trường này, chính phủ cũng có phân biệt, tập trung chủ yếu vào Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa trong nỗ lực thúc đẩy nó đạt đến top 20 của toàn thế giới. Hai trường ở Thượng Hải– Phúc Đán và Giao thông– có được những khoản đầu tư khả dĩ so sánh được với hai trường trên, nhờ khoản ngân sách bổ sung rất hào phóng của chính phủ Thượng Hải.
Ấn Độ là một trường hợp bất thường. Trong những năm 1950 và 60, nó tập trung nguồn lực vào việc xây dựng năm Viện Khoa học Công nghệ Ấn Độ. Những trường này, và thêm mười trường nữa được tiếp tục xây dựng trong hai thập kỷ kế tiếp, là những trường xuất sắc trong việc đào tạo kỹ sư, nhưng không phải là những đơn vị có sức cạnh tranh toàn cầu trong lãnh vực nghiên cứu. Và Ấn Độ đã không có một nỗ lực có tính hệ thống nào để nâng cao vị trí của bất cứ trường nào trong số mười bốn trường đại học tổng hợp quốc gia của họ, là những trường đã được cung cấp tài chính quá ít.
Bộ trưởng Giáo dục hiện nay của Ấn quyết tâm xây dựng các trường đại học tổng hợp đẳng cấp quốc tế. Nhưng lực lượng của những người theo chủ nghĩa bình quân vốn thống trị nền dân chủ mạnh mẽ của Ấn Độ đang đe dọa việc áp đặt triển vọng ưu tú cho các trường, bằng cách trải đều ngân sách nhà nước quá mỏng và cho phép sự cân nhắc về công bằng xã hội cắt ngang quân bài chủ là lựa chọn sinh viên và giảng viên chỉ dựa trên phẩm chất. Cách đây hai năm, chính phủ thông báo rằng họ sẽ tạo ra ba mươi trường đại học đẳng cấp quốc tế mới, mỗi tiểu bang một trường, rõ ràng là một tham vọng phi thực tế. Con số này sau đó giảm xuống còn mười bốn, mỗi trường cho một bang hiện nay chưa có đại học tổng hợp, nhưng ngay cả mục tiêu này cũng có vẻ quá tầm so với Trung Quốc tập trung vào chỉ bảy trường, và tập trung đặc biệt chỉ hai trường mà thôi trong số bảy trường ấy.
Trước hiện tượng thành công phi thường của các nhà khoa học Ấn Độ trong cộng đồng người Do Thái, nguồn nhân lực để xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Ấn hẳn nhiên là có. Nhưng còn cần phải xem liệu Ấn Độ có thể chấp nhận được sự phân biệt rất lớn về tiền lương giảng viên hay không vì đó là điều cần thiết để thu hút những học giả hàng đầu của thế giới. Trung Quốc đang trả lương cho những người đến từ Anh và Mỹ gấp năm lần tiền lương của một giáo sư thông thường. Ấn Độ sẽ phải trả gấp hai mươi lần so với tiền lương giáo sư thông thường để lôi cuốn những người giỏi nhất trở về. Bởi vậy, nhà nước Ấn đang theo đuổi một chiến lược khác có khả năng được lựa chọn và xem ra nhiều tiềm năng hứa hẹn hơn là cho phép thành lập các trường đại học nước ngoài và tạo điều kiện cho các trường đại học tư– nước ngoài hoặc trong nước – có thể phát triển rực rỡ. Ấn Độ đang nghĩ về việc gắn các nhà tỷ phú của họ vào việc thành lập các trường đại học mới như một khả năng có thể chọn cùng với việc dùng hệ thống chính trị để làm.
Tuy vậy, về mặt nào đó, Ấn Độ có một lợi thế mạnh hơn so với Trung Quốc, ít nhất là hiện nay. Đó là sự tự do của giảng viên trong việc theo đuổi những mối quan tâm trí tuệ của họ bất kể những mối quan tâm ấy sẽ dẫn họ đến đâu, và tự do của sinh viên cũng như giảng viên trong việc diễn đạt và kiểm nghiệm những ý tưởng dị giáo hay trái với thông thường bậc nhất của họ – sự tự do này là một đặc điểm tuyệt đối không thể thiếu của một trường đại học tổng hợp đẳng cấp quốc tế thực sự. Rất có thể đạt được vị trí đẳng cấp quốc tế trong khoa học tự nhiên khi kìm chế tự do diễn đạt ý tưởng về chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Một số Viện Hàn lâm Xô viết đã đạt được vị trí như thế trong toán và vật lý thời chiến tranh lạnh. Nhưng không một trường đại học tổng hợp nào có thể làm được điều này trong thời hiện đại.
Có một trở ngại tiềm tàng khác cho sự thành công của Trung Quốc, điều đang là chủ đề của cuộc thảo luận khá mạnh mẽ: cách làm độc nhất trong đó quyền lãnh đạo nhà trường được chia sẻ giữa hiệu trưởng và bí thư đảng cộng sản, người làm việc với tư cách Chủ tịch Hội đồng Trường. Thường thì hai nhà lãnh đạo này làm việc cùng nhau rất có hiệu quả. Nhưng vẫn có mối quan ngại rằng cơ cấu ra quyết định như thế sẽ hạn chế khả năng của các hiệu trưởng trong việc đạt được mục tiêu của họ, vì sự bổ nhiệm những vị trí quản lý cao cấp– các phó hiệu trưởng và trưởng khoa– nằm trong tay Hội đồng Trường– do Bí thư Đảng làm Chủ tịch. Vấn đề quản trị đại học hiện nay đang được Bộ Giáo dục Trung Quốc xem xét lại.
Kết luận: Một trò chơi tất cả các bên đều có thể thắng
Sự trỗi dậy của các trường đại học châu Á là biểu hiện tự nhiên của một hiện tượng tổng quát hơn, đó là toàn cầu hóa. Khi mọi rào cản dòng chảy con người, hàng hóa và thông tin hạ xuống, và khi quá trình phát triển kinh tế tiếp tục đi lên, các quốc gia châu Á đã và đang tăng cường việc tiếp cận các nguồn lực vật chất, con người, và thông tin cần thiết cho việc tạo ra những trường đại học ở mức độ xuất sắc cao nhất. Nếu các quốc gia mới nổi ở châu Á tập trung nguồn lực đang tăng trưởng của họ cho một số trường đếm trên đầu ngón tay, gắn vào những trường này một lực lượng nhân tài ở trình độ thế giới, và đi theo chủ trương tự do diễn đạt tư tưởng và tự do theo đuổi tri thức, họ có mọi triển vọng để thành công trong việc xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Nó không phải là chuyện xảy ra trong một đêm, mà sẽ mất hàng thập kỷ. Nhưng nó có thể xảy ra nhanh hơn bao giờ hết.
Chúng ta ở phương Tây nên nhìn triển vọng này như thế nào– như một mối đe dọa hay một cơ hội? Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng cạnh tranh trong giáo dục, như một hiện tượng của bản thân toàn cầu hóa, là một cuộc chơi mà tất cả các bên đều có thể được hưởng lợi.
Hãy xem thử một ví dụ sau đây. Một trong những nhà di truyền học lỗi lạc nhất của chúng tôi ở Đại học Yale và các công sự của ông bây giờ phải chia đôi thời gian của họ giữa các phòng thí nghiệm ở New Haven và ở Đại học Phúc Đán tại Thượng Hải. Một giáo sư đặc biệt lỗi lạc khác của Yale, một nhà sinh học thực vật, có một thỏa thuận tương tự ở Đại học Bắc Kinh. Trong cả hai trường hợp, Trung Quốc đã đem lại một khoảng không gian đáng kể và đội ngũ nghiên cứu để hỗ trợ những nỗ lực của các nhà khoa học của Đại học Yale, trong lúc sự hợp tác với Đại học Yale đã nâng cao kỹ năng cho các giáo sư trẻ và sinh viên của Trung Quốc. Cả hai đều có lợi.
Có thể đưa ra lý luận tương tự như thế đối với dòng chảy sinh viên và giao lưu ý tưởng. Vì toàn cầu hóa nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm xuyên văn hóa, mức độ thường xuyên của việc trao đổi sinh viên đã nhân lên gấp bội. Khi các trường đại học châu Á nâng cao chất lượng, kinh nghiệm của sinh viên tham gia các chương trình giáo lưu cũng tăng lên như thế. Mọi người đều có lợi trong việc giao lưu tư tưởng, cũng không khác gì mọi người đều có lợi trong việc trao đổi tự do hàng hóa và dịch vụ.
Cuối cùng, việc tăng cường chất lượng giáo dục trên toàn thế giới sẽ tạo ra những công dân có năng lực tốt hơn và hiểu biết nhiều hơn. Số phận của hành tinh này phụ thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc hợp tác xuyên biên giới để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất của xã hội– sự nghèo đói dai dẳng, những căn bệnh thịnh hành, sự phát triển vũ khí hạt nhân, sự thiếu thốn nguồn nước, và sự nguy hiểm của tình trạng ấm nóng toàn cầu. Có được những công dân và những nhà lãnh đạo được giáo dục tốt hơn chỉ có thể giúp ích nhiều hơn cho việc giải quyết những vấn đề ấy.
Xin cảm ơn quý vị. Tôi rất vui lòng lắng nghe mọi câu hỏi của quý vị.
Nguồn:http://www.hepi.ac.uk/483-1780/Seventh-HEPI-Annual-Lecture.html
Tạp chí Foreign Affairs số tháng 5 và 6 năm 2010.
Top of the Class: The Rise of Asia's Universities
Richard C. Levin
RICHARD C. LEVIN is President of Yale University.
The rapid economic development of Asia since World War II -- starting with Japan, South Korea, and Taiwan, then extending to Hong Kong and Singapore, and finally taking hold powerfully in India and mainland China -- has forever altered the global balance of power. These countries recognize the importance of an educated work force to economic growth, and they understand that investing in research makes their economies more innovative and competitive. Beginning in the 1960s, Japan, South Korea, and Taiwan sought to provide their populations with greater access to postsecondary education, and they achieved impressive results.
Today, China and India have an even more ambitious agenda. Both seek to expand their higher-education systems, and since the late 1990s, China has done so dramatically. They are also aspiring to create a limited number of world-class universities. In China, the nine universities that receive the most supplemental government funding recently self-identified as the C9 -- China's Ivy League. In India, the Ministry of Human Resource Development recently announced its intention to build 14 new comprehensive universities of "world-class" stature. Other Asian powers are eager not to be left behind: Singapore is planning a new public university of technology and design, in addition to a new American-style liberal arts college affiliated with the National University.
Such initiatives suggest that governments in Asia understand that overhauling their higher-education systems is required to sustain economic growth in a postindustrial, knowledge-based global economy. They are making progress by investing in research, reforming traditional approaches to curricula and pedagogy, and beginning to attract outstanding faculty from abroad. Many challenges remain, but it is more likely than not that by midcentury the top Asian universities will stand among the best universities in the world.
THE PIONEERS
In the early stages of their countries' postwar development, Asian governments understood that greater access to higher education would be a prerequisite to sustained economic growth. A literate, well-trained labor force helped transform Japan and South Korea over the course of the past half century, first from agricultural to manufacturing economies, then from economies focused on low-skilled manufacturing to those focused on high-skilled manufacturing. With substantial government investment, the higher-education systems in both countries expanded rapidly. In Japan, the gross enrollment ratio -- the fraction of the university-age population that is actually enrolled in some type of postsecondary educational institution -- rose from nine percent in 1960 to 42 percent by the mid-1990s. In South Korea, the increase was even more dramatic, from five percent in 1960 to just over 50 percent in the mid-1990s.
During this period, China and India lagged far behind. Even in the mid-1990s, only five percent of university-age Chinese citizens remained in school, putting China on par with Bangladesh, Botswana, and Swaziland. In India, despite a postwar effort to create a group of national comprehensive universities and, later, the elite Indian Institutes of Technology, the gross enrollment rate remained a mere seven percent in the 1990s.
By the late 1990s, China's leaders knew their country had to catch up. Speaking at the one hundredth anniversary celebration of Peking University in 1998, Chinese President Jiang Zemin outlined a plan to greatly expand his country's system of higher education. And his administration made it happen -- faster than any similar efforts ever before in history. By 2006, China was spending 1.5 percent of its GDP on higher education, nearly triple what it had spent a decade earlier.
The results of Beijing's investment have been staggering. Over the decade following Jiang's declaration, the number of institutions of higher education in China more than doubled, from 1,022 to 2,263. Meanwhile, the number of Chinese who enroll in a university each year has quintupled -- rising from one million students in 1997 to more than 5.5 million in 2007. This expansion is without precedent, and university enrollment in China is now the largest in the world.
China still has a long way to go to achieve its aspirations concerning access to higher education. Despite the enormous surge, China's gross enrollment rate for higher education stands at 23 percent, compared with 58 percent in Japan, 59 percent in the United Kingdom, and 82 percent in the United States. And the expansion has slowed since 2006, driven by concerns that enrollments have outstripped the capacity of faculty to maintain quality in some institutions. The student-teacher ratio has roughly doubled over the past decade. But enrollment will continue to rise as more teachers are trained, since China's current leaders are keenly aware of the importance of a well-educated labor force for economic development.
India's achievement to date has not been nearly as impressive, but its aspirations are no less ambitious. Already the world's largest democracy, India is on track to become the most populous country in two decades, and by 2050, if its growth can be sustained, its economy could become second in size only to China's. To fuel that economic growth, India's human resource development minister, Kapil Sibal, aims to increase his country's gross enrollment ratio in postsecondary education from 12 percent to 30 percent by 2020. This goal translates to an increase of 40 million students in Indian universities over the next decade -- an ambitious target, to be sure, but even half that number would be a remarkable accomplishment.
COMPETING WITH THE BEST
Having made tremendous progress in expanding access to higher education, the leading countries of Asia are now focused on an even more challenging goal: building universities that can compete with the finest in the world. The governments of China, India, Singapore, and South Korea are explicitly seeking to elevate some of their universities to this exalted status because they recognize the important role that university-based scientific research has played in driving economic growth in the United States, western Europe, and Japan. And they understand that world-class universities are the ideal place to educate students for careers in science, industry, government, and civil society -- creating people who have the intellectual breadth and critical-thinking skills to solve problems, to innovate, and to lead.
This recognition has come not a moment too soon. Today, China and India remain at a stage of development that allows them to compete with other countries thanks to their low costs of labor in manufacturing. These labor costs will remain low as long as there is underemployed labor in the agricultural sector. But eventually -- as happened in Japan and South Korea -- the manufacturing sector will grow to absorb the remaining surplus agricultural labor, and in the absence of an abundant supply of cheap labor, wages will begin to rise. At that stage, it will become impossible to sustain rapid economic growth without innovation and without introducing new products and new services, many of them the fruits of applied research based on underlying scientific advancements. At its current pace of urbanization, China will begin to lose its labor-cost advantage in manufacturing in about two decades. India will reach the same point a decade later. This gives both countries enough time to build up their capacity for innovation.
To oversimplify, consider the following puzzle: Japan grew much more rapidly than the United States from 1950 to 1990, as its surplus labor was absorbed into industry, and much more slowly than the United States thereafter. Now consider whether Japan would have grown so slowly if Microsoft, Netscape, Apple, and Google had been Japanese companies. Probably not. It was innovation based on science that propelled the United States past Japan during the two decades prior to the crash of 2008. It was Japan's failure to innovate that caused it to lag behind.
Developing top universities is a tall order. World-class universities achieve their status by assembling scholars who are global leaders in their fields. This takes time. It took centuries for Harvard and Yale to achieve parity with Oxford and Cambridge and more than half a century for Stanford and the University of Chicago (both founded in 1892) to achieve world-class reputations. The only Asian university to have broken into the top 25 in global rankings is the University of Tokyo, which was founded in 1877.
Most of all, building universities capable of world-class research means attracting scholars of the highest quality. In the sciences, this requires first-class facilities, adequate funding, and competitive salaries and benefits. China is making substantial investments on all three fronts. Shanghai's top universities -- Fudan, Shanghai Jiao Tong, and Tongji -- have each developed whole new campuses within the past few years. They have outstanding research facilities and are located close to industrial partners. Funding for research in China has grown in parallel with the expansion of university enrollment, and Chinese universities now compete much more effectively for faculty talent worldwide. In the 1990s, only ten percent of those Chinese who received Ph.D.'s in the sciences and engineering in the United States returned home. That number is now rising, and increasingly, China has been able to repatriate midcareer scholars from tenured positions in the United States and the United Kingdom; they are attracted by the greatly improved working conditions and by the opportunity to participate in China's rise. India, too, is beginning to have more success in drawing on its diaspora, but it has yet to make the kind of investments that China has made in improving facilities, stepping up research funding, and increasing compensation for top professors.
THE RESEARCH PRIORITY
Beyond the material conditions required to attract faculty, an efficient system of allocating research funding is also needed. The underlying principles for creating such a system were articulated in a 1945 report by Vannevar Bush, then the science adviser to U.S. President Harry Truman. The report acknowledged that discoveries in basic science are ultimately the basis for developments in industrial technology, but it noted that the economic gains from advances in basic science often do not accrue for decades. And such advances often yield results that were entirely unanticipated at the time of the scientific breakthroughs. For example, when the laser was first invented, in the late 1950s, no one imagined that it would become useful in eye surgery decades later. Because the full economic benefit of a breakthrough in pure science can rarely be captured by the original inventor, private companies do not often have sufficient incentives to make many socially productive investments. Government must take the lead.
Bush's 1945 report established the framework for U.S. government support for scientific research. It was founded on three principles, which still govern today. First, the federal government bears the primary responsibility for funding basic science. Second, universities -- rather than government-run laboratories, nonteaching research institutions, or private companies -- are the primary institutions responsible for carrying out this government-funded research. Third, although the government determines the total amount of funding available for different scientific fields, specific projects and programs are assessed not on political or commercial grounds but through an intensely competitive process of peer review, in which independent experts judge proposals on their scientific merit alone.
This system has been an extraordinary success. It has the benefit of exposing postgraduate scientists-in-training -- even those who do not end up pursuing academic careers in the long run -- to the most cutting-edge techniques and areas of research. It allows undergraduates to witness meaningful science firsthand, rather than merely reading about the last decade's milestones in a textbook. And it means that the best research gets funded -- not the research proposed by the most senior members of a department's faculty or by those who are the most politically connected.
This has not been the typical scheme for facilitating research in Asia. Historically, most scientific research there has taken place apart from universities, in research institutes and government laboratories. In China, Japan, and South Korea, funding has been directed primarily toward applied research and development (R & D), with a very small share devoted to basic science. In China, for instance, only about five percent of R & D spending is aimed at basic research, compared with 10-30 percent in most developed countries. As a share of GDP, the United States spends seven times as much as China on basic research.
Moreover, peer review is barely used for grant funding in most of Asia. Japan has historically placed the bulk of its research resources in the hands of its most senior scientists. Despite Tokyo's acknowledging several years ago that a greater share of research funding should be subjected to peer review, only 14 percent of the Japanese government's spending on non-defense-related research in 2008 was subjected to competitive review, compared with 73 percent in the United States.
Yet there is no doubt that Asian governments have made R & D a priority. R & D spending in China has increased rapidly in recent years, rising from 0.6 percent of the country's GDP in 1995 to 1.3 percent in 2005. That is still well below the spending in more advanced countries, but it is likely to keep climbing. The Chinese government has set a goal of increasing R & D spending to 2.5 percent of GDP by 2020. And there is already some evidence of the payoff from increased research funding: from 1995 to 2005, for example, Chinese scholars more than quadrupled the number of articles they published in leading scientific and engineering journals. Only the United States, the United Kingdom, Germany, and Japan account for more.
MORE THAN MEMORIZATION
But it takes more than research capacity alone for a nation to develop economically. It takes well-educated citizens of broad perspective and dynamic entrepreneurs capable of independent and original thinking. The leaders of China, in particular, have been very explicit in recognizing that two elements are missing from their universities: multidisciplinary breadth and the cultivation of critical thinking. Asian universities, like those in Europe but unlike those in the United States, have traditionally been highly specialized. Students pick a discipline or a profession at age 18 and study little else thereafter. And unlike in elite European and U.S. universities, pedagogy in China, Japan, and South Korea relies heavily on rote learning; students are passive listeners, and they rarely challenge one another or their professors in classes. Learning focuses on the mastery of content, not on the development of the capacity for independent and critical thinking.
The traditional Asian approaches to curricula and pedagogy may work well for training line engineers and midlevel government officials, but they are less suited to fostering leadership and innovation. While U.S. and British politicians worry that Asia, and China in particular, is training more scientists and engineers than the West, the Chinese and others in Asia are worrying that their students lack the independence and creativity necessary for their countries' long-term economic growth. They fear that specialization makes their graduates narrow and that traditional Asian pedagogy makes them unimaginative. Officials in China, Singapore, and South Korea have become increasingly attracted to the American model of undergraduate education. Universities in the United States typically provide students with two years to explore a variety of subjects before choosing a single subject on which to concentrate during their final two years. The logic behind this approach is that exposing students to multiple disciplines gives them alternative perspectives on the world, which prepares them for new and unexpected problems.
In today's knowledge economy, no less than in the nineteenth century, when the philosophy of liberal education was articulated by Cardinal John Henry Newman, it is not subject-specific knowledge but the ability to assimilate new information and solve problems that is the most important characteristic of a well-educated person. The Yale Report of 1828 -- an influential document written by Jeremiah Day (who was at the time president of Yale), one of his trustees, and a committee of faculty -- distinguished between "the discipline" and "the furniture" of the mind. Mastering a specific body of knowledge -- acquiring "the furniture" -- is of little permanent value in a rapidly changing world. Students who aspire to be leaders in business, medicine, law, government, or academia need "the discipline" of mind -- the ability to adapt to constantly changing circumstances, confront new facts, and find creative ways to solve problems.
Cultivating such habits requires students to be more than passive recipients of information; they must learn to think for themselves and to structure an argument and defend or modify it in the face of new information or valid criticism. The Oxford-Cambridge "tutorial" system is perhaps the epitome of such pedagogy. The American substitute has been the interactive seminar, in which students are encouraged to take and defend positions in small groups and to challenge, rather than blindly accept, the instructor's point of view. Examinations at top U.S. universities rarely call for a recitation of facts; they call on students to solve problems they have not encountered before or to analyze two sides of an argument and state their own position.
There has already been dramatic movement toward American-style curricula in Asia. Peking University introduced the Yuanpei Honors Program in 2001, a pilot program that immerses a select group of the most gifted Chinese students in a liberal arts environment. These students live together and sample a wide variety of subjects for two years before choosing a major field of study. At Fudan University, all students now take a common, multidisciplinary curriculum during their first year before proceeding with the study of their chosen discipline or profession. At Nanjing University, students are no longer required to choose a subject when they apply for admission; they may instead choose among more than 60 general-education courses in their first year before deciding on a specialization. Yonsei University, in South Korea, has opened a liberal arts college on its campus, and the National University of Singapore has created the University Scholars Program, in which students do extensive work outside their discipline or professional specialization.
Changing the style of teaching is much more difficult than changing the curricula. It is more expensive to offer classes with smaller enrollments, and it requires the faculty to adopt new methods. This is a major challenge in China, Japan, and South Korea, where traditional Asian pedagogy prevails. (It is much less of a concern in India and Singapore, where the legacy of British influence has created a professoriate much more comfortable with engaging students interactively.) The Chinese, in particular, are eager to tackle this challenge, and they recognize that those professors who have studied abroad and been exposed to other methods of instruction are best equipped to revamp teaching. Increasing opportunities for Asian students to study in the West and for Western students to spend time in Asian universities will also help accelerate the transformation.
In China, however, gaining widespread support for such changes is difficult given the unique way in which the responsibilities of running a university are divided between each institution's president and its Communist Party secretary. Often, the two leaders work together very effectively. But there are concerns that the structure of decision-making limits a university president's ability to achieve his or her academic goals, since the appointment of senior administrators -- vice presidents and deans -- is in the hands of a school's university council, which is chaired by the party secretary rather than the president. The Chinese government appears to recognize that this structure of university governance is problematic; the issue is under review by the Ministry of Education.
A FOCUS ON FLAGSHIPS
Not every university can or needs to be world class. The experiences of the United States, the United Kingdom, and Germany are instructive. In the United States and the United Kingdom, higher education is a differentiated system of many types of institutions, of which the comprehensive research university is merely one. And within the group of comprehensive universities, government support for research is allocated chiefly on the basis of merit, which allows some institutions to prosper while others lag behind. In the United States, fundraising reinforces this differentiation. Success breeds success, and for the most part, the strongest institutions attract the most philanthropy. In Germany, by contrast, government policy since World War II has kept universities from maintaining their distinction. After the war, the government opened enrollment, allowed the student-faculty ratio to rise everywhere, isolated the most eminent researchers in separate institutes but otherwise distributed resources on the basis of equity rather than merit. In doing so, it destroyed the worldwide distinction Germany's best universities once held. Only recently has the government decided to focus its resources on three universities in particular, in order to make them more globally competitive.
Japan and South Korea have learned this lesson. Both have well-funded flagship national universities: the University of Tokyo and Seoul National University. And in Japan, at least two other public universities, Kyoto University and Osaka University, are not far behind the University of Tokyo and are well above the rest. China understands the strategy, too. In 1998, it identified seven universities for disproportionate investment: Fudan, Nanjing, Peking, Shanghai Jiao Tong, Tsinghua, Xi'an Jiaotong, and Zhejiang. And even within that group, the government has drawn distinctions, concentrating national resources on Peking University and Tsinghua University in an effort to propel them into the worldwide top 20. The Shanghai-based institutions -- Fudan and Shanghai Jiao Tong -- are making nearly comparable investments, thanks to generous supplemental funding from the Shanghai government.
India is the anomalous case. In the 1950s and 1960s, it focused its resources on establishing five Indian Institutes of Technology. These, and the ten more added in the past two decades, are outstanding institutions for educating engineers, but they have not become globally competitive in research. And India has made no systematic effort to raise the status of any of its 14 comprehensive national universities, which are severely underfunded.
India's current minister of human resource development is determined to create world-class comprehensive universities. But the egalitarian forces that dominate the country's robust democracy -- which allow considerations of social justice to trump meritocracy in selecting students and faculty -- threaten to constrain the prospects for excellence. To a greater degree than elsewhere in Asia, the admission of students and the hiring of faculty is regulated by quotas ("reservations") ensuring representation of the historically underprivileged classes. Moreover, political considerations seem to prevent the concentration of resources on a small number of flagship institutions. Two years ago, the government announced that it would create 30 new world-class universities, one for each of India's states -- clearly an unrealistic ambition. The number was subsequently reduced to 14, one for each state without a comprehensive university, but even this goal seems unattainable.
Given the extraordinary achievements of Indian scholars throughout the diaspora, the human capital for building world-class universities back home is surely present. But it remains to be seen whether the Indian government can tolerate the disproportionately high salaries that would be necessary to attract leading scholars from around the world. Consequently, the government is pursuing a more promising strategy that would allow the establishment of branch campuses of foreign universities and reduce the regulatory burdens on private universities.
In one respect, however, India has a powerful advantage over China, at least for now. It affords faculty the freedom to pursue their intellectual interests wherever they may lead and allows students and faculty alike to express, and thus test, their most heretical and unconventional theories -- freedoms that are an indispensible feature of any great university. It may be possible to achieve world-class stature in the sciences while constraining freedom of expression in politics, the social sciences, and the humanities. Some of the specialized Soviet academies achieved such stature in mathematics and physics during the Cold War. But no comprehensive university has ever done so.
MUTUALLY ASSURED PROGRESSION
As barriers to the flow of people, goods, and information have come down, and as the process of economic development proceeds, Asian countries have increasing access to the human, physical, and informational resources needed to create top universities. If they concentrate their growing resources on a handful of institutions, tap a worldwide pool of talent, and embrace freedom of expression and freedom of inquiry, they will succeed in building world-class universities. It will not happen overnight; it will take decades. But it may happen faster than ever before.
For the West, the rise of Asian universities should be seen as an opportunity, not a threat. Consider how Yale has benefited. One of its most distinguished geneticists, Tian Xu, and members of his team now split their time between laboratories in New Haven and laboratories at Fudan University, in Shanghai. Another distinguished Yale professor, the plant biologist Xing-Wang Deng, has a similar arrangement at Peking University. In both cases, the Chinese provide abundant space and research staff to support the efforts of Yale scientists, while collaboration with the Yale scientists upgrades the skills of young Chinese professors and graduate students. Both sides win.
The same argument can be made about the flow of students and the exchange of ideas. Globalization has underscored the importance of cross-cultural experience, and the frequency of student exchanges has multiplied. As Asia's universities improve, so do the experiences of students who participate in exchange programs. Everyone benefits from the exchange of ideas, just as everyone benefits from the free exchange of goods and services.
Finally, increasing the quality of education around the world translates into better-informed and more productive citizens everywhere. The fate of the planet depends on humanity's ability to collaborate across borders to solve society's most pressing problems -- the persistence of poverty, the prevalence of disease, the proliferation of nuclear weapons, the shortage of fresh water, and the danger of global warming. Having better-educated citizens and leaders can only help.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáBàn về Nguyên khí, Dương khí & Âm khí
08/12/2009Nguyễn Tất Thịnh