Có hai giả thuyết về sự xuất hiện của con người trên trái đất
Thuyết thứ nhất - thuyết cố định - cho rằng con người đã được tạo hoá dựng lên và từ đó cho đến nay con người không có có gì thay đổi.
Thuyết tiến hoá, trái lại, cho rằng con người hiện tại là kết quả của một quá trình biến hoá, khởi từ những con vật nhân hình (les anthropides). Hầu hết các nhà khoa nghiêng về giả thuyết thứ hai này. Tuy nhiên chưa có nhà khoa học nào khẳng định được lúc nào, giai đoạn nào trong đó đã xẩy ra sự chuyển hoá quyết định khiên con vật kể trên kia thành con người. Vấn đề không cần đặt ra ở đây và ta chỉ cần xác định yếu tố quyết định sự biến đổi về phần này - yếu tố làm cho con người khác con vật đó là sự đột khởi của tự do, của ý thức. Tự do, ý thức như vậy là hai đặc tính của con người với tư cách là người.
Tuy nhiên lúc đầu, con người còn ở trong tình trạng sơ khai, thấp kém và hồn nhiênm nhất là chưa giác ngộ, phản tỉnh chưa biết “trở về mình”, chưa biết mình là ý thức, là người khác con vật. Do đó nếu hiểu triết học là nỗ lực suy nghĩ về mình về vị trí của con người trong vũ trụ...một cách mạch lạc và hệ thống thì hẳn là con người sơ khai chưa có triết học.
Nhưng nếu hiểu triết học là triết lý, là một thái độ trước cuộc đời và thái độ bao hàm một ý nghĩa (dù ban đầu chưa khai triển thành ý niệm, hệ thống...) thì con người bất luận ở trình độ nhận thức nào đi chăng nữa cũng đều có những thái độ, những quan niệm về nguồn gốc con người, nguồn gốc vũ trụ, thiên nhiên... Vậy, người sơ khai có triết lý mà không có triết học ( vì chưa có phản tỉnh một cách hệ thống). Triết lý ở đây không phải thuần tuý là ý tưởng, kiến thức, mà là một thái độ sống. Thái độ sống này xuất hiện dưới hình thức tư tưởng, tập tục, lễ nghi, tôn giáo, chế lập xã hội... nhất là huyền thoại hay thần thoại ( có yếu tố thần linh ).
II. Định nghĩa huyền thoại và thái độ huyền thoại.
Đối với chúng ta bây giờ, huyền thoại hay thần thoại là một câu chuyện, một lời nói huyền hoặc, hão huyền và có tác dụng huyền diệu người khác. Huyền thoại là cái không thật, hoang đường, bịa đặt, tưởng tượng. Nhưng đối với người sơ khai, huyền thoại là chân lý, sự thật, và họ tin như vậy.
Trong những xã hội mà huyền thoại còn sống động, đang thịnh hành, người sơ khai thường phân biệt huyền thoại (chuyện có thật, lời có thật), dính líu tới nguồn gốc thế giới, vũ trụ, nhân vật: Thần linh, ma quỷ, siêu nhiên, hoặc dính líu tới những anh hùng dân tộc làm những cử chỉ lạ lùng (chống lụt, chống đói, chống thú dữ... cứu nhân độ thế) với những chuyện không thật. Chẳng hạn thổ dân Pawnee phân biệt chuyện thật (thần thoại) với chuyện không thật (ngụ ngôn, dính líu tới sinh hoạt của cầm thú).
Thái độ huyền thoại (những đặc điểm)
Huyền thoại thường kể lại những việc làm của những nhân vật linh thiêng, do đó nó có tính chất thần linh và vì thế gọi là thần thoại do thần linh làm: Thần sét, thần lửa, thần mưa, thần gió, thần bể...
Những thần thoại có tính cách linh thiêng vì kể lại nguồn gốc loài người, vũ trụ, tổ tiên, liên lạc trực tiếp tới sự sinh sống của người đang sống, trong khi những chuyện không thật chỉ liên quan đến những sinh hoạt, cử chỉ của cầm thú thảo mộc. Chẳng hạn, những dân tộc ven biển thường sinh sống bằng nghề chài lưới có huyền thoại sau đây:
Thuở xưa, có một vị thần đã dạy cho tổ tiên bộ lạc cách đánh cá, và chính Thần đó đã làm việc đánh cá đầu tiên, để rồi từ đó nhân dân trong bộ lạc bắt chước. Dù mang tính cách linh thiêng, nội dung huyền thoại vẫn hiển nhiên, không thể nghi ngờ được, chỉ việc tin, không bao giờ thắc mắc. Đặc điểm của huyền thoại là coi sự thật như là một hiển nhiên tuyệt đối. Không có vấn đề vì huyền thoại giải đáp mọi vấn đề trước khi đặt ra: Đã tin thì cứ thế mà tin. Do đó không thể có tiến bộ, thay đổi. Người sống bằng huyền thoại là sống trong trạng thái ngừng động, an nghỉ, bất động, bất di bất dịch hoàn toàn, cố định, cứ như thế mãi mãi. Lối sống của nhiều thổ dân như Pygméss bên Phi Châu hay Úc cứ tiếp tục mãi từ thời Tiền sử cho đến bây giờ vì họ sống bằng Huyền thoại.
Đối với niềm tin ở Huyền Thoại, bao giờ cũng có một thái độ có tích chất tôn giáo ( kính trọng ), tôn sùng, không dám đụng đến (đứng xa mà nhìn, cung kính), nói đến vì sợ phạm thượng.
Huyền thoại không do suy luận trừu tượng, cũng không phải là một nhận thức thuần tuý nhưng là một thái độ sống cụ thể, một quan niệm về cuộc đời sống động mà không hề biết có quan niệm đó. Người cổ xưa đồng hoá với những quan niệm về cuộc đời. Và bởi vì cuộc đời thần thoại có tính chất thầ linh nên thái độ sống này có tính chất tôn giáo.
Người ta sống niềm tin thần thoại và biểu lộ nó bằng một nghi lễ (rite), một thờ cúng. Nghi lễ là một cách thế kể lại, hiện thực niềm tin, thần thoại làm cho sự kiện đã qua (lúc cấu tạo trời đất, sinh thành con người...) trở thành hiện tại.
Khi làm hiện thực một niềm tin bằng một lễ nghi, không phải chỉ để tưởng niệm một việc đã qua, nhắc lại nó nhưng là thực hiện tại, làm cho nó trở thành sống động trong hiện tại... Cũng như bên Thiên Chúa giáo, khi linh mục làm lễ, đọc lại câu: "Này là mình ta" thì không phải chỉ nhắc lại một sự kiện lịch sử tích Thánh Thể bằng một cử chỉ phụng vụ (geste liturgique, tế tự, lễ bái, với một thái độ trang nghiêm, kính cẩn trong một thánh (ban đêm).
Vì thế, khi đề cập đến thần thoại, người sơ khai không ngồi kể như chuyện cho vui, cũng không phải bất cứ ai cũng được phép kể (cũng như lễ nghi tôn giáo thường được dành cho những người được chọn, trong phái nam như linh mục, tu sĩ, mục sư...).
Ở nhiều thổ dân, đề cập đến thần thoại là làm một cử chỉ tôn giáo và không bao giờ làm trước mặt đàn bà trẻ con mà chi do những người già cả, trưởng tộc như Piddington nhận xét về dân Karadjeri.
“Những thần thoại linh thiêng không thể cho đàn bà biết thường liên quan đến nguồn gốc vũ trụ, và nhất là đến những thể chế, những lễ nghi”.
Thần thoại như vậy có nghĩa là lập lại (répétition), thực hiện tại ( réaffirmation du même), nhắc đi nhắc lại cũng vẫn một cử chỉ mà ý nghĩa là hiện tại hoá.
Những ngày lễ có mục đích lặp lại một cách trọng thể, đặc biệt những thần thoại bằng những lễ nghi có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống dân tộc. Trong những buổi lễ, người ta thường mừng lễ hết sức tưng bừng ( nhảy múa, reo hò, ca hát, phung phí sức lực, tiền tài…) để biểu lộ niềm tin một cách mãnh liệt đầy đủ có khi hàng tuần lễ liền.
Thái độ huyền thoại cũng có tính cách hồn nhiên
- Hồn nhiên có nghĩa là hoà hợp, hoà đồng, đơn thuần, chưa có phân ly, phân biệt, vì chưa có ý thức phản tỉnh. Với con người sơ khai, tư tưởng, suy nghĩ, cảm nghĩ, cảm xúc chỉ là một - Chưa phân biệt con người với vũ trụ, thiên nhiên, vạn vật, người khác - Chưa phân biệt ý thức về thân xác của mình, tinh thần và vật chất, ý chí và thân xác. Do đó chưa phân biệt tĩnh động, biến dịch trường tồn thời gian, vĩnh cửu.
Vũ trụ đối với người so khai là thiên nhiên, cụ thể, trong giới hạn tầm lĩnh hội của con người. Họ không có một ý niệm về không gian sống động, không gian cư ngụ mà thôi, giảm lượng và những gì chung quanh họ. Họ không tin là họ ở trong không gian vì họ là không gian, họ tự coi như một yếu tố cấu tạo không gian. Họ cũng không biết họ là Tài, khác với người khác (ý thức về sự khác biệt, cách biệt về mình như một đơn vị, một cá nhân). Họ không có bản ngã riêng, không có ý thức cá nhân, không có tên riêng, do đó không có tự ái cá nhân khoe khoang, tự đắc, ích kỷ.
Theo Lévy-Bruhi:
“Ý thức mà người sơ khai có về cá thể của mình bị bao phủ trong một tĩnh tự mà yếu tố nổi bật là cảm tưởng cho rằng cá nhân thuộc về một tập thể, và tập thể mới là cá thể đích thực, còn họ chỉ là một phần như những phần của một đoàn thể xã hội.”
Về điểm này Leenhardt cũng nhận định:
“Con người chỉ biết mình nhờ liên hệ với người khác. Con người chỉ xác định mọi vị trí của mình từ những mỗi liên hệ đó.”
Người sơ khai cũng có ý thức về thời gian biến đổi, họ sống trong hiện tại. Họ hoà đồng với thiên nhiên, vũ trụ, với ngưới khác, với chính mình. Họ sống trong viên mãn và hạnh phúc (mà có khi không biết) hoặc có khổ cũng không biết mình khổ, nói khác, họ không khổ cũng không sướng, vì chưa có ý thức. Do đó, có ý thức là mất sự hoà đồng hoà hợp và đau khổ vì không đạt được lý tưởng. Sự tưởng nhớ không thôi cái trạng thái hòa đồng nguyên thuỷ thường được biểu lộ qua những chuyện thần tiên.
Người sơ khai như vậy không đối lập với thiên nhiên cũng không muốn chinh phục thiên nhiên. Những sự kiện xảy ra đều đã được giải thích theo những niềm tin (thần thoại) nên không còn gì thắc mắc. Cũng vì vậy, chưa có cần lao (là nỗ lực nhằm biến đổi thiên nhiên), chưa có kỹ thuật. Sự cần lao của họ thường là lấy cái sẵn có trong thiên nhiên (hái lượm, săn bắn) tương tự loài vật.
Thần Biển: Hình dạng như một con rùa khổng lồ nằm im một nơi không sinh không diệt. Khi thần hít thì nước tuôn vào bụng, thở thì nước phì ra hiện tượng thuỷ triều. Mỗi lần thần cựa quậy thì sinh ra sóng thần.
Nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng là hai chị em được Ngọc Hoàng phân công cho đi chiếu sáng, xem xét sự lập công của dân gian. Họ có một chồng chung là con gấu. Gấu ta thỉnh thoảng tìm đến với 1 trong 2 vợ, thành hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
2. Nguồc gốc loài người
Những thần thoại “Bà mụ, rắn già rắn lột”(2) …
3. Nguồn gốc dân tộc:
Chuyện Lạc Long Quân....
4. Thần thoại về tận thế, cứu cánh vũ trụ thường kể vũ trụsuýt bị tiêu huỷ ra sao trong dĩ vãng (hồng thuỷ, Sơn tinh, Thuỷ tinh…) vì những tai nạn kinh khủng. Lý do của những tai nạn kinh thiên động địa này là sự giận giữ của thần linh, các thần đánh nhau hay muốn chấm dứt thế giới này. Trong tương lai, cũng có thể bị tiêu diệt, một thế giới mới khai sinh ra.
5. Thần thoại có tính cách luân lý, thần thiện, ác
Ngoài cõi trần còn có cõi trời, cõi Nước (thuỷ phủ), cõi âm (âm phủ)
Thần chia làm 2 hạng: tốt, đáng kính, đáng yêu, xấu, đáng ghét, đáng sợ. Cả hai hạng Thần đều có thất tình như người. Ông Thiện, ông Ác cũng thường có chuyện tranh chấp nhau mà kết cuộc ao giờ Thiện cũng thắng Ác
6. Thần Thiện Thần Ác ở đây điều khiển đời sống luân lý của mỗi người
Thần thoại bầy tỏ sự mơ ước tuyệt đối, luống nhớ cái Hoàn tất toàn Thiện, khát vọng cãi vĩnh viễn, Trường Tồn, Bất Biến (Tiên thoại, Phật thoại) ra khỏi cái sinh, diệt sống chết lên cõi bồng lai tiên cảnh là thế giới vô cùng tốt đẹp, sung sướng. Ước mơ được thành Tiên, lấy Tiên, lên tiên, ở với tiên, chốn Thiên Thai. Tiên ở đây là biểu tượng của cái Đẹp, cái Tốt, cái vĩnh cửu không hề có trên đời này(3).
Chức năng công dụng của huyền thoại
Thần thoại trong đời sống người cổ sơ bao hàm, chi phối, chỉ đạo mọi sinh hoạt của con người cũng như mang lại cho họ một ý nghĩa sống. Thần thoại ở đây không phải là một thứ Triết Lý hiểu như một tri thức thuần tuý ( biết để mà biết) mà là một đạo sống hiểu như toàn thể những nhận thức, chân lý, lễ nghi, tập tục, tôn giáo. Malinowski đã viết:
“Nhìn như một cái gì sống động, thần thoại không phải chỉ là một giải thích nhằm thoải mãn một sự tò mò khoa học, nhưng là câu chuyện làm sống lại một thực tại nguyên uỷ, và nó đáp lại một nhu cầu tôn giáo sâu xa, những khát vọng luân lý, những ràng buộc và mệnh lệnh xã hội, và ngay cả những đòi hỏi thực tiễn. Trong những nền văn minh sơ khai, thần thoại đóng một vai trò cần thiết, nó biểu lộ nâng cao và qui định thành luật lệ. Nó bảo vệ những nguyên tắc luân lý và buộc thực hành những nguyên tắc đó. Nó bảo đảm tính chất hiệu nghiệm của những nghi lễ và đề ra những luật lệ thực tiễn cho con người vâng theo. Do đó, thần thoại là một yếu tố quan trọng của văn minh nhân loại. Không phải là một chuyện hoang đường, trái lại nó là một tại linh động mà người ta luôn luôn phải hướng tới. Không phải là một lý thuyết trừu tượng hay một phô diễn ảnh tượng nhưng là một quy định luật lệ đích thực của tôn giáo sơ khai và của đạo lý thực tiễn… Tất cả những câu chuyện đó đối với con người sơ khai đều biểu lộ một thực tại nguyên ủy, giàu ý nghĩa hơn thực tại hiện có và ấn định đời sống trực tiếp, những sinh hoạt và số phận nhân loại. Điều mà con người hiểu về thực tại đó sẽ bày tỏ cho nó ý nghĩa các lễ nghi và những bổn phận luân lý, đồng thời cách thế phải thực hiện những lễ nghi, bổn phận trên”(4).
Sự biến thiên của huyền thoại trong lịch sử
Nhiều dân tộc như Ấn Độ, Hy Lạp còn giữ lại được cả một kho tàng thần thoại. Những chuyện thần thoại vẫn tác dụng vào đời sống tình cảm con người hiện đại và là nguồn gốc cảm hứng nghệ thuật về thi ca, điêu khắc, bi kịch.
Ở nước ta chắc hẳn cũng có nhiều thần thoại, nhưng không được sưu tầm truyền tụng lại. Người ta cho rằng sở dĩ những dân tộc giữa được nhiều thần thoại là vì họ có chữ viết để ghi chép và được các thi gia kết đúc thành văn phẩm.
Ở Việt Nam, có lẽ vì chưa có văn tự riêng, lại bị ngoại bang thống trị lâu dài, nên chỉ có văn chương truyền miệng và do đó không có điều kiện ghi chép lại các thần thoại.
Đến khi nhà nho bắt đầu ghi chép, xây dựng Quốc Sử họ đã có ý thức lịch sử, biết phân biệt cái thực và cái không thực, cái tượng nên có lẽ đã loại bỏ không sưu tầm ghi chép những chuyện thần thoại hoặc sửa chữa nó thành giả sử, lịch sử nghĩa là đã lịch sử hóa thần thoại. Vì thế, nước ta còn rất ít thần thoại được lưu truyền trong dân gian. Giai đoạn tiền sử của dân tộc mà chúng ta được biết nhiều hơn cả không phải là giai đoạn thần thoại mà là giai đoạn truyền thuyết, truyền kỳ chuyện cổ tích, ngụ ngôn…
Trái lại, ở Hy Lạp, những thi sĩ như Homère, Hésiode đã san định thần thaoij thành những tác phẩm nổi tiếng như Illiade, Odyssée. Đối với người Hy Lạp thời tiền sử, thần thoại vừa là triết lý, tôn giáo, vừa là sử thi, nghệ thuật.
Riêng về nghệ thuật, người ta nói rằng sở dĩ văn nghệ Âu Châu, đặc biệt thời Hy Lạp, La Mã và thời phục hưng được rực rỡ phong phú là vì bắt nguồn cảm hứng ở thần thoại Hy Lạp. Hội họa Chiêm Thành, Cao Mên cũng lấy đề tài trong các thần thoại của họ. Ở Việt Nam, thần thoại ít có tác dụng trữ tình bằng chuyện truyền kỳ cổ tích, ngụ ngôn. Những chuyên Ngưu Lang, Chức Nữ, Thằng Cuội, Chị Hằng Nga… vẫn là nguồn gốc cảm hứng nghệ thuật trữ tình, lãng mạn trong văn thơ Việt Nam.
Marx đã nhận định về ý nghĩa của thần thoại: "Chúng ta biết rằng thần thoại Hy Lạp không những là nơi sáng tạo và là kho tàng nghệ thuật Hy Lạp mà còn là đất nuôi dưỡng nó. Phải có thần thoại Hy Lạp trước, rồi mới có nghệ thuật Hy Lạp.
Thần thoại đó là tự nhiên và là hình thái xã hội Hy Lạp đã được óc tưởng tượng của dân chúng nhào nặn bằng một nghệ thuật tự giác!"
Thần thoại trải qua diễn biến, mất dần tính cách thần linh và trở thành những câu chuyện truyền thuyết, truyền kỳ, rồi sau cùng biến thành chuyện cổ tích, ngụ ngôn… sang đến giai đoạn truyền kỳ, truyền thuyết, người ta vẫn tin những câu chuyện là có thực nhưng chỉ kể lại mà thôi, không còn có thái độ tôn giáo làm sống lại cử chỉ thần thoại theo một nghi lễ. Tuy đã mất tính chất thần linh, nhưng chuyện truyền kỳ vẫn giữ tính chất phi thường lạ lùng, đặc biệt, hoang đường của thần thoại.
Sau thời kỳ truyền kỳ lịch sử là lúc con người có ý thức lịch sử và bắt đầu biên chép sử, người chép sử gạt bỏ những câu chuyện hoang đường phi thường thuộc về thwofi kỳ thần thoại, hay truyền kỳ. Ý thức được lịch sử là biết phân biệt cái thực đã xảy ra với cái không thực, tưởng tượng, hoang đường biết phân biệt hư thực là đã có ý hướng về chân lý và để có hướng về chân lý, con người phải biết suy luận, phê phán. Thời kỳ lịch sử là thời kỳ con người dùng trí khôn để nhận thức không những về vũ trụ, cuộc đời mà cả về thần linh.
Ở Hy Lạp, những nhà triết học đầu tiên thời thượng cổ đã phê phán những chuyện thần thoại, truyền kỳ do Homère, Hesiode kể. Họ hoài nghi những thần linh là có thật, nhất là những thần linh có tác phong đầy nhân tính như tự cao, dâm dục, ghen tuông… Sau đó, các triết gia hoài nghi luôn cả những thần linh chân chính, tốt lành là có thực.
Chẳng hạn Anaximandre, triết gia Hy Lạp đầu tiên, đã đưa ra một quan niệm giải thích vũ trụ mà không dựa vào những thần thoại. Xenophane không ngần ngại đả kích những thần do Homère kể, đặc biệt những thần có khả năng chuyển động hay bất diệt. Khi phê phán thần linh, họ dựa vào lý trí, suy luận để phủ nhận thần linh có thực. Như Théon (thế kỷ II TCN) phê bình thần thoại Médée. Médée là một đàn bà phù thủy đã dùng gươm giết chết con mình, trong thành phố cha nó ở mà lý do hành động là vì giận chồng, Théon lý luận bác bỏ thần thoại là có thực như sau: nếu dựa trên tình mẹ, thì mẹ không thể nào giết con, đó là việc làm khó tin, hơn nữa lại giết ngay trong thành phố mà cha nó là Jasson đang ở. Rồi cách giết cũng cũng không thể tin được. Médée là một phù thủy, thì phải dùng bùa chú, lý do giết càng không tin được vì giận chồng mà giết con thì quả là phi lý, hành động như thế chỉ làm khổ mình hơn vì nạn nhân chính là con của mình.
Như thế thời kỳ này đã có những hoài nghi về thần thoại xuất hiện.
Đến Planton có thể coi sự suy luận đạt tới được một hình thức triết học, vì ông phê phán thần thoại để xây dựng một hệ thống triết học trong đó thần linh không còn có một vai trò nào nữa. Thiện, ác mà ông đề cập tới chỉ là một tiêu chuẩn của luân lý, đạo đức mà thôi. Trong giai đoạn này thần linh theo một số triết gia được coi là nguyên lý của vũ trụ chứ không phải một nhân vật, một cá thể có nhân tính như trong huyền thoại.
Lần dở lịch sử Tây phương thời thượng cổ về triết học, ta có thể coi Socrate như một trường hợp điển hình về sự tự giác, phản tỉnh: ý thức về bản ngã như là một cá tính khác biệt với thiên nhiên và vũ trụ. Socrate nêu lên một đòi hỏi căn bản là đừng để mình bị lôi cuốn, vì người chưa có ý thức là người mà bản ngã bị đắm chìm trong tập thể, trong vô ngã. Sự tự giác bắt đầu bằng thái độ hoài nghi.
Hoài nghi là đặt khoảng cách giữa chúng ta và những điều chúng ta hoài nghi. Hoài nghi là rút ra khỏi thực tại để nhìn lại thực tại. Vì thế ta không còn thái độ tôn kính và chấp nhận quyền bính của đối tượng mình tin, không chấp nhận huyền bí bao hàm trong thần thoại. Socrate là người đầu tiên bị bắt đầu hoài nghi khi nêu lên khẩu hiệu “Hãy tự biết mình” nghĩa là hãy trở về với mình, tìm hiểu mình là ai? Có bổn phận gì? Có bổ phận đối với ai? Nên làm gì? Không được làm gì? Phải làm gì? Khi đã trả lời rồi thì phải tuân phục mệnh lệnh dựa trên nhận thức đó chứ không phải dựa trên thần linh hay một thế lực nào khác. Vì tư tưởng trên được coi là lập dị, nên Socrate đã gặp phản ứng của một xã hội đang đắm mình trong niềm tin vào thần linh. Ông bị kết án, nhưng ong vui lòng chấp nhận cái án bất công đó. Ta có thể gọi đó là cuộc cách mạng của Socrate, người đầu tiên tiêu diệt thần thoại, huyền thoại vì chúng không dựa trên một nền tảng hợp lý.
25/12/2017Hồ Sĩ QuýTriết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông...
30/03/2016Triết học hay là những triết lí trong cuộc sống. Người ta thường nói ai trong chúng ta cũng đều phải đối diện với những vấn đềtrong cuộc sống va người thành công là người có triết lí sống thích hợp. Thế nhưng thế nào là triết lí sống thích hợp?
05/05/2015Võ Trần Bình PhươngQuanh năm quay cuồng với chuyện làm ăn, bàn chuyện kinh tế, chính trị, thời sự; cuối năm có lẽ là dịp để mỗi chúng ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời... Thử một lần không bàn về chuyện kinh tế, TBKTSG đã “trà dư tửu hậu” với nhà nghiên cứu triết học phương Tây Bùi Văn Nam Sơn...
10/11/2010Như LêNói đến triết học, nhiều người thường tỏ ra e ngại, có cái gì đó như nặng nề - phải nhăn trán suy tư; hoặc nói đến những người râu tóc dài, những thư viện lớn và những cuỗn sách dày cộm… Thế nhưng, có những cuốn sách triết học lại làm người đọc phấn chấn tạo cảm giác gần gũi, như đọc tác phẩm văn học hay sách giải trí vậy...
11/12/2008Lương Việt HảiBài viết góp phần luận giải mối quan hệ giữa văn hóa, triết lý và triết học. Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hóa của một dân tộc...
16/03/2007Đặng Phùng QuânKhi thông tin sự cáo chung, triết học cũng mang ý nghĩa đặt định nhiệm vụ của tư tưởng của thời đại mới. Có thật sự một thời đại đã chấm dứt và một thời đại mới bắt đầu?
13/07/2006N.LCông ty Văn hóa & truyền thông Nhã Nam cùng Nxb Văn học vừa cho ra mắt bộ sách Danh tác triết học,gồm một số tác phẩm của Nietzsche, Schopenhaue... nhưng thay vì những tuyển tập dày cộp, lại là những cuốn mỏng, bìa mềm, dễ đọc, dễ biểu vớivăn phong lưu loát, chỉn chu. Thể thao & Văn hóatrao đổi với ông Nguyễn Nhật Anh (Giám đốc Công ty)...
07/07/2006Nguyên Ngọc (Dịch & giới thiệu)Viết công trình này Francois Jullien qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng TrungHoa cổ dại (là cơ sở để nghiên cứu minh triếtphương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây)...
07/02/2006Đỗ Anh ThơĐề cập tới hai chữ “triết học”, các em học sinh sinh viên đều có một cách nhìn giống nhau, cho rằng đây là một môn học khô khan, trừu tượng , khó hiểu. Do đó phần lớn thời gian khi ngồi trên ghế nhà trường các em đều học một cách đối phó, bị động, học thuộc lòng, không hề có chút nào động não...
22/12/2005Nguyễn Văn TrungTrước khi học một môn gì tôi hỏi: Môn đó là gì? Chẳng hạn Vật lý học là gì? Vậy trước khi học triết lý, tôi cũng hỏi triết lý là gì? Và tôi coi việc hỏi như vậy là sẽ tự nhiên đã hẳn là thế, chẳng khác gì tôi hỏi về một vật gì, một việc gì chẳng hạn, cái bàn là gì?
13/12/2005Cam Lu - Trương Hiệu - Minh Nguyệt (thực hiện)Thực tế ở Việt Nam, việc giảng dạy môn triết học cũng như đội ngũ cán bộ nghiên cứu giảng dạy môn học này hiện ra sao?
07/09/2005Lê ThiTrước đây, C.Mác đã nói: "Vũ khí vật chất của triết học là giai cấp vô sản cũng giống như vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản là triết học" (1). Vấn đề đặt ra cho chúng ta ngày nay là làm sao cho triết học Mác - Lênin thật sự trở thành vũ khí tinh thần của nhân dân...
24/05/2005Sầu ĐôngTriết học là môn học đòi hỏi người học phải “lao tâm khổ trí”. Ðối với một số người, nó là môn học hấp dẫn, dẫn ta tới kho tàng bất tận của những túi khôn của nhân loại...
27/04/2003Thế giới quan chính là biểu hiện của cách nhìn bao quát (bức tranh) đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngòai, cả con người và cả mối quan hệ của người – thế giới (tức là mối quan hệ của người đối với thế giới). Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nan cho hành động của con người...