Khủng hoảng lựa chọn văn hóa

03:59 CH @ Thứ Sáu - 19 Tháng Sáu, 2015

Xem thêm:

Với tư cách một khái niệm, khủng hoảng lựa chọn văn hóa dùng chỉ một tình trạng của văn hóa, khi xã hội và con người thiếu (không có) các tiêu chí, chuẩn mực văn hóa có khả năng định tính, định hướng quá trình nhận thức văn hóa dẫn đến sự nhiễu loạn hành vi văn hóa của xã hội và con người…

Sinh sống trên vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa, với điều kiện địa lý riêng như vậy, hàng nghìn năm trước, người Việt đã lựa chọn canh tác nông nghiệp lúa nước làm phương thức sinh tồn chủ yếu và cùng với thời gian, kinh tế nông nghiệp lúa nước trở thành hệ quy chiếu quy định nét riêng của văn hóa Việt, cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ thế giới quan coi con người và thế giới đều được cấu trúc theo mô hình âm – dương có tính phổ quát, người Việt đi tìm một lối sống hòa đồng với tự nhiên, tự coi mình là bộ phận của tự nhiên và bằng lòng với vai trò là bộ phận. Sự ra đời của tổ chức cộng đồng từ yêu cầu cố kết để canh tác nông nghiệp lúa nước, cố kết để chống lại các cuộc xâm lăng… đã sớm hình thành nên ý thức cộng đồng – một yếu tố cực kỳ quan trọng trong trường tồn lịch sử. Cá thể và cộng đồng, cộng đồng và cá thể cùng lo nỗi lo, cùng chia sẻ niềm vui. Sống giữa “biển làng xã”, mỗi người Việt thấy vững tâm khi sống giữa cộng đồng, thấy lẻ loi khi vì lý do nào đó mà phải xa rời quan hệ huyết thống, hay láng giềng… “Sống bằng mồ mả, không ai sống bằng cả bát cơm”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”… các răn dạy trong xử lý quan hệ huyết thống, quan hệ cộng đồng thoạt nghe có vẻ như là phủ nhận lẫn nhau nhưng xét đến cùng, chính là sự đề cao, khẳng định vai trò quan trọng của các quan hệ trong cộng đồng. Nhưng hình như, vấn đề có ý nghĩa quan thiết nhất đối với cư dân nông nghiệp lúa nước là vòng quay không đổi của chu kỳ canh tác: cày bừa – gieo mạ - cấy – làm cỏ - bón phân – gặt mùa, rồi tiếp tục cày bừa – gieo mạ… đã tạo nên một tiết tấu sống khá ổn định trải qua các thế hệ. Xuân – hạ - thu – đông, tết đến xuân về, vụ chiêm – vụ mùa, mọi thứ hầu như ít biến động, đến ngày “song thập” (10 tháng 10) là ăn cơm mới, và không thể đi gặt vào tháng giêng cũng không thể đón tết vào ngày đông chí! Nghĩa là cha ông chúng ta đã sống và lao động theo một chu kỳ đã được xác lập, hay đã được “lập trình” – như ngôn ngữ hôm nay của chúng ta. Và cha ông quan niệm chỉ có thể nương theo tự nhiên, chứ không thể tác động để làm biến đổi tự nhiên. Các điều kiện địa lý – kinh tế riêng, sự lặp lại dường như không đổi của vạn vật… dường như đã không làm nảy sinh nhu cầu phân tích sự vật – hiện tượng ở xung quanh, không làm nảy sinh nhu cầu tổng kết, khái quát ở tầm mức lý luận; các kinh nghiệm đã được rút đúc, các vốn liếng kinh nghiệm mà các thế hệ tích lũy và trao truyền cho nhau cũng đủ phục vụ các nhu cầu sinh tồn thiết yếu theo nguyên tắc “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Do vậy, mọi sáng tạo vật chất – tinh thần xét đến cùng đều nhằm hoàn chỉnh “cái đã có” chứ không để tìm tòi “cái phải có” và cha ông đã chọn một lối sống dựa trên nền tảng triết lý quân bình, giữa hài hòa mọi mối quan hệ.

Từ thời Nho giáo du nhập vào Việt nam, dần dần tìm được chỗ đứng chân, thì trong nhiều trường hợp, Nho giáo trở thành chuẩn mực chi phối nhiều tiêu chí văn hóa bản địa. “Kính nhi viễn chi”, “ôn cố tri tân”, “tập kỳ đại thành”… các quan niệm của Nho giáo được du nhập đã thống trị trong tâm thức nhiều thế hệ và không góp phần thúc đẩy tinh thần khám phá, mà chủ yếu khuyến khích đi tìm sự thích nghi. Trong quá khứ, hầu như người Việt không ham lập các kỷ lục, không bị ám ảnh bởi ước mơ bay vào vũ trụ, không có ý định tự hỏi “hai vạn dặm dưới đáy biển” có gì… nhìn chung là ít quan tâm tìm hiểu thế giới ngoài mình. Sống trong xã hội cũng vậy, khi nhà nước phong kiến thiết lập, con người trở thành thần dân, ít biến động về địa vị, họ chủ yếu thực thi hai chức phận chủ yếu: tự lao động để nuôi sống mình và thực hiện nghĩa vụ đối với triều đình. Trong bối cảnh ấy, ông vua chuyên chế không quan tâm tới cải cách, càng không có ý định khuyến khích các ý tưởng cải cách. Như nhận xét của GS Trần Đình Hượu, thần dân đã bị “thần dân hóa toàn thể”, họ yên phận vị, tự răn mình tất cả là do mệnh trời, không thể làm cho biến đổi. Nếu có phải chịu cảnh bất công xã hội, cũng chỉ biết thở than. Chúng ta thường nhắc tới tổ chức và vai trò của làng xã Việt nam. Ngoài các mặt tích cực của làng xã trong lịch sử như nhiều tác giả đã kết luận, có lẽ cũng không nên quên rằng trong mấy nghìn năm, với làng xã, mỗi người tìm thấy chỗ dựa cho chính mình, làm nảy sinh tâm thế ỷ vào làng xã, đến mức như quên mất rằng, chính mình phải góp phần làm cho làng xã phát triển.

Với đa số người Việt Nam xưa, học hành là con đường khả dĩ dẫn đến sự đổi đời, hiếu học, trở thành một phẩm chất được đề cao. Sinh thời, GS Trần Quốc Vượng đã phác họa sự đổi đời này qua tương quan tam giác tính “vua – quan – dân”, vai trò xã hội của mỗi cá thể chủ yếu biến động trong tương quan tam giác tính ấy. Và như đã nói ở trên, xưa kia mọi sáng tạo vật chất – tinh thần xét đến cùng đều nhằm hoàn chỉnh “cái đã có” chứ không để tìm tới “cái phải có”, để tham gia các kỳ thi, tiền nhân chủ yếu học lại, ôn lại, trình bày lại. Và học để làm quan, học để đổi đời có lẽ đã trở thành một mục đích tối quan trọng chi phối sự hiếu học.


Tâm thế, tình trạng trên đây hầu như ít biến động trong đa số người Việt nam sau gần một thế kỷ bị người Pháp đô hộ. Ngoài tầng lớp tư sản dân tộc, trí thức ở đô thị, bộ phận tiên tiến trong giai cấp công nhân non trẻ, do tiếp xúc và tiếp nhận tri thức mà trong họ nảy sinh kiểu tư duy mới có quan hệ với nhận thức khoa học. Từ năm 1945, hoàn cảnh lịch sử khác trước đã đặt người Việt Nam vào những điều kiện sinh tồn mới. Từ ngập ngừng đến chủ động tiếp nhận và truyền bá, lẽ ra những tri thức có khả năng giúp hình thành một kiểu tư duy mới phải được du nhập trong tính hệ thống và toàn vẹn. Muốn chiếm lĩnh, mỗi người phải đạt tới trình độ học vấn nhất định, phải nỗ lực tự thân… thì do điều kiện lịch sử và có lẽ còn do yêu cầu thực dụng trong thực hành nữa, tri thức mới – đặc biệt là tri thức của các khoa học về tư duy, có ý nghĩa định hướng cho nhận thức và hành động, đã bị quy giản đến mức tối thiểu. Sự quy giản này phải chăng một mặt để phù hợp với trình độ dân trí, một mặt để đáp ứng kịp thời các đòi hỏi của sự giác ngộ? Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hơn 90% người Việt Nam chưa biết chữ, nhận thức được điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi giặc dốt nguy hiểm không kém giặc đói, giặc ngoại xâm. Người kêu gọi toàn dân cố gắng khắc phục, vì Người đã nhận thấy muốn phát triển đất nước thì người Việt Nam phải học. Phong trào Bình dân học vụ là biện pháp cấp thiết của một giai đoạn, nhưng lại có “vệt kéo dài” tới gần mấy chục năm. Các khóa đào tạo vài ba tháng là thanh toán xong chương trình từ lớp 1 đến lớp 5, các lớp bổ túc, các khóa bồi dưỡng ngắn ngày… có kết quả rất đáng ngờ, vẫn tiếp tục tiến hành đến tận hôm nay. Với những tri thức đòi hỏi muốn thâu nạp phải có trình độ nhất định thì tình hình khá phức tạp. Thí dụ, mọi công dân Việt Nam làm việc trong lĩnh vực xã hội nào (nhất là viên chức làm việc tại các cơ quan Đảng, Nhà nước) cũng đã học qua một (vài) chương trình triết học Marx-Lenin, có chứng chỉ. Nhưng ngoài mấy công thức đã quy giản như “vật chất quyết định ý thức”, “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”, “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”… thì liệu họ còn lưu giữ được gì? Và nếu hỏi họ đã vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học vào công việc chuyên môn như thế nào, liệu họ có thể trả lời? Vậy rồi nhiều người đã sử dụng mấy công thức quy giản như “cẩm nang lý luận”, không khác người xưa thuộc nằm lòng Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức… Dẫn tới việc này sinh ra những căn bệnh: chủ quan duy ý chí, coi thường quy luật khách quan, sùng bái kinh nghiệm để xem thường tri thức lý luận, tri thức khoa học… Các căn bệnh này thể hiện qua sự hoành hành của tệ hành chính mệnh lệnh và hình thức chủ nghĩa, tệ gia trưởng độc đoán và thói ban phát ân huệ, tệ sùng bái cá nhân và thói nịnh bợ, thói sử dụng quyền lực thay cho tri thức, tệ tham ô,lãng phí và ỷ vào Nhà nước, giấu dốt và ngụy biện, quy chụp mỗi khi đuối lý hoặc muốn triệt hạ người khác, ăn cắp tri thức, coi thường lao động , bằng cấp “dỏm”, rồi dị ứng với ý kiến đóng góp thẳng thắn nhưng nghiêm túc. Quan ngại hơn là tình trạng người được đào tạo chuyên ngành khoa học này lại lãnh đạo người làm chuyên ngành khoa học khác, người không có chuyên môn lại lãnh đạo người có chuyên môn.

Ai đó có thể phản bác: làm lãnh đạo nghiên cứu khoa học không nhất thiết phải là chuyên gia, mà là người lãnh đạo, tổ chức giỏi. Đúng thôi, nhưng nếu chúng ta lãnh đạo, tổ chức giỏi trong khoa học thì nhất thiết khoa học phải có kết quả, phải đào tạo được đội ngũ chuyên gia đầu ngành – hai vấn đề dẫu chưa có con số cụ thể vẫn có thể đoán chắc còn… khác khiêm tốn.


Học sinh, sinh viên khấn xin điểm


Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, một số thế lực đã và đang sử dụng mọi phương tiện để tấn công vào con người và chế độ, trong văn hóa dân gian có thể xuất hiện một số sản phẩm ra đời từ sự thiếu thiện chí, nhưng không có nghĩa là ý kiến của quần chúng lại không được coi trọng. Có lẽ do chưa có nhận thức đầy đủ, chưa kịp thời (chưa muốn?) khắc phục, nên tới hôm nay, tình trạng trầm trọng đến mức được định danh qua một khái niệm rất khôi hài là “quan trí thấp”?!

Ở các giai đoạn lịch sử trước, các quan hệ xã hội chưa phức tạp, các chuẩn mực và tiêu chí sống còn khá thống nhất, con người chưa tiếp xúc với quan niệm về cá nhân và ý thức chịu trách nhiệm về hành vi trước xã hội còn chưa hình thành rõ nét… thì tác động của các vấn đề trên có thể không lớn. Nhưng, vào lúc quan hệ xã hội đã trở nên phức tạp, khả năng truyền bá thông tin nhanh chóng, con người ít nhiều đã nhận biết về sự phát triển tự do của bản thân… thì những nội dung đề cập trên đây sẽ trực tiếp làm nhiễu loạn hệ thống chuẩn mực cùng tiêu chí sống, nảy sinh tình trạng khủng hoảng lựa chọn văn hóa trong một số nhóm xã hội và tất nhiên là ảnh hưởng tới xã hội. Một cơ thể xã hội khỏe mạnh sẽ là một cơ thể có khả năng đề kháng trước sự xâm nhập của bất kỳ loại virus nào. Một nền văn hóa có nội lực mạnh mẽ sẽ có khả năng tự đứng vững trên đôi chân của nó. Điều hiển nhiên ấy, trước hết phụ thuộc vào chính chúng ta, không thế lực nào có thể làm suy yếu nền văn hóa của đất nước này, trừ khi chúng ta tự làm suy yếu mình.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Lệch chuẩn văn hóa

    15/04/2019Nhà Sử học Dương Trung QuốcMỗi con người ít nhiều mang trong mình một giá trị ảo bởi đều sống trong không gian và thời gian mà khái niệm của chuẩn mực đang xáo trộn để tiếp cận chân lý. Để tiến tới một chuẩn mực hoàn hảo thì hãy chấp nhận thay đổi từng bước.
  • Văn hóa và "phản" văn hóa

    24/06/2018Kim DungLàm sao một nền văn hóa mấy nghìn năm các bậc tiền nhân để lại, đến hôm nay, không tìm thấy sự tri kỷ ở những kẻ hậu thế chúng ta? Hay bởi thời buổi kim tiền, mà chữ tâm cũng chỉ có... hơi đồng?
  • Thế kỷ của những chuyển dịch văn hóa

    03/04/2018Nguyễn HòaĐối với Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ của các biến động chính trị - xã hội. Để giành lại độc lập, dân tộc đã phải hao tổn quá nhiều xương máu và nước mắt. Những biến thiên ngoắt ngoéo của lịch sử đã đẩy văn hóa dân tộc vào tình thế chỉ trong một thế kỷ, đã phải chịu ảnh hưởng của nhiều nguồn văn hóa rất khác nhau, trong các tình thế khác nhau...
  • Bẻ hoa và văn hóa đọc

    24/02/2018Hiệu Minh (Từ Washington, D.C)Nếu có chút hiểu biết, không ai lại nỡ bẻ hoa của các nghệ nhân. Ngắt trộm bông hoa cho đứa con thơ của mình, người cha đã dạy con thói quen ăn cắp ngay từ nhỏ. Sếp cầm phong bì không thể tìm được nhân viên trong sạch...
  • Chúng ta chưa có con ngựa văn hóa để cưỡi

    09/07/2017Nguyễn Trần BạtHiện tượng bùng nổ do những trạng thái phát triển mới về tự do không phải là hiện tượng chỉ có ở Việt Nam. Thời kỳ Phục hưng, thời kỳ Khai sáng là những thời kỳ làm bùng nổ rất nhiều tài năng. Những trạng thái bùng nổ tinh thần tạo ra sự bùng nổ các tài năng là một hiện tượng có thật. Ở Việt Nam cũng có nhiều lúc như vậy....
  • Muốn hội nhập, phải thoát khỏi văn hoá làng xã

    29/09/2015M. T. ghiViệt Nam là một dân tộc ngàn đời nay sống bằng nghề nông trồng lúa nước, cho nên toàn bộ văn hoá VN, xã hội VN, cái hay cái dở của VN đều từ văn hoá làng xã mà ra...
  • Biến động văn hoá thập kỷ đầu tiên

    13/05/2015Nhà phê bình: Phan Cẩm ThượngThập kỷ đầu tiên của thế kỷ trước (1900-1909), nền văn hoá Việt Nam biến động dữ dội như chính xã hội và chính trị lúc bấy giờ. Xu hướng phương Tây được áp đặt và thống trị trong giáo dục của người Pháp ở các thành thị, còn nông thôn vẫn mù mịt cho đến hơn nửa thế kỷ sau. Trí thức Việt Nam lúc đó biết dùng văn hoá hiện đại vào việc cách tân đất nước trong những phạm vi nhất định...
  • Sự hình thành trong im lặng của văn hóa

    09/04/2015Nguyễn Trần BạtPhải nói rằng đất nước chúng ta mới mở cửa được 20 năm và không phải lớp người nào cũng nhận được lợi ích từ Văn hóa Việt, vì thế mọi người đều vội vã đi tìm những cái cho mình trong đời sống, và do đó chúng ta nhìn thấy sự vội vã...
  • Nhận diện những hiện tượng phản văn hóa

    27/10/2014Phùng HiểnỞ nước ta, nhiều năm gần đây cùng với sự xuất hiện các giá trị văn hóa mới, những hiện tượng phản văn hóa ngày một gia tăng. Nhận định và đấu tranh với các phản văn hóa không phải một việc đơn giản. Có những phản văn hoá lại nhân danh văn hóa, nhân danh chủ nghĩa nhân đạo tồn tại như những mẫu mực sống của một cộng đồng người nhất định...
  • Văn hóa đang "loạn chuẩn"?

    28/05/2014Nguyễn Như PhongKhông hiểu nghĩ thế nào mà người ta đưa một ông diễn viên chèo đóng vai Lý Thái Tổ trong khi theo nghi lễ truyền thống, để nhớ bậc tiền nhân người ta thường rước kiệu hoặc rước bài vị hoặc rước một kỷ vật nào đấy của người xưa. Đóng giả vai vua trong những sự kiện trọng đại thế này đó chính là sự xúc phạm đến tiền nhân...
  • Báo động ô nhiễm môi trường văn hoá

    30/03/2014Minh ThiVăn hoá, nói như nhà văn Nguyên Ngọc, là cái phanh của xã hội, của lịch sử. Một khi cái phanh ấy bị hỏng, thảm hoạ xảy ra khôn lường. Những bộc lộ gần đây ở lĩnh vực văn hoá cho thấy cái phanh ấy đang bị hỏng hóc; hoặc giả đó là hệ lụy từ một quá trình du nhập nhiều loại rác văn hoá, mà không qua một màng lọc của hệ thống quản lý hiệu quả...
  • Bá quyền văn hóa kiểu Trung Quốc

    05/07/2011Đoan TrangNhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
  • Tản mạn về văn minh và văn hoá

    24/02/2011TS. Phạm Duy NghĩaNgày xưa các cụ thường bảo người Tây chỉ hơn ta vì họ giỏi cái văn minh cơ khí, chứ còn phương Đông nghìn năm thâm trầm và huyền bí, nền văn trị, dùng văn để giáo hoá con người, tức là văn hoá của ta chẳng dày gấp mấy lần xứ họ...
  • Trả lại không gian cho văn hóa

    08/02/2011Nguyên NgọcMỗi biểu hiện văn hóa đều có không gian thiết yếu của nó. Người Việt từng đối mặt mà không hề sợ, thậm chí tận dụng được mọi cái hay, lạ, bản địa hóa nó để làm giàu cho mình, đồng thời không bị đồng hóa, vì chúng ta có một cái cốt lõi văn hóa rất sâu, rất bền, trụ vững trong một không gian được cấu trúc rất độc đáo, chặt chẽ: Làng...
  • "Nhạy cảm" - một từ rất hay trong giới văn hóa

    04/08/2009Kim Anh thực hiệnĐã từ lâu, cái tên Đoàn Tử Huyến rất quen thuộc với bạn đọc, không phải chỉ bởi anh là một dịch giả tài hoa, một tay làm sách chuyên nghiệp xuất phát từ tình yêu đối với sách… mà còn bởi những câu phát biểu, những ứng xử gây “sốc” cho không ít người. Có gì mâu thuẫn chăng, giữa con người đam mê và rất kén chọn khi đọc sách với con người kinh doanh sách trong thời buổi thị hiếu của người đọc không có một cái chuẩn nào cụ thể?
  • Tại sao văn hóa "suy dinh dưỡng"?

    07/07/2009Quốc NamChính chúng ta không thể hiểu nổi cái môi trường mà chúng ta hàng ngày cùng chung sống với con cháu chúng ta lại có những khoảng cách ứng xử quá xa nhau như thế, nhiều lúc khó có thể tìm ra tiếng nói chung giữa các thế hệ trong cùng một gia đình.
  • “Dân chủ là một hiện tượng văn hóa”

    10/04/2009Hoàng Ngọc HiếnGiữa thế kỷ XIX, Alexis de Tocqueville (1805 - 1859) xuất hiện như là
    "lương tâm" của trung thế kỷ; ngày nay hai công trình cơ bản của ông Về
    dân chủ (De la democratie) (1835 - 1840) - bản dịch tiếng Anh có nhan
    đề là "Về dân chủ ở Mỹ", "Chế độ cũ và cách mạng" (L'ancien regime et la
    revolution) (1856) được nhìn nhận là những tác phẩm khoa học có giá trị
    kinh điển. Đặc biệt công trình "Về dân chủ" chứng tỏ tác giả có cách nhìn
    khoa học sâu sắc và sáng suốt lạ thường trong việc nghiên cứu xã hội Mỹ
    cũng như trong suy tư triết học về viễn cảnh chế độ dân chủ và lý tưởng
    dân chủ.
  • Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua sự hiện diện của tờ báo

    09/04/2009Trần Văn ToànSự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”.
  • Thêm một lần bàn về văn hóa và văn minh

    16/11/2008Đỗ Kiên CườngThời gian qua, trên Tia Sáng và trên một số báo khác, có nhiều bài viết rất thú vị bàn về chủ đề văn hóa (và văn minh) trong quá trình canh tân đất nước1. Bài viết này xin bàn thêm về chủ đề rất phức tạp và quan thiết này, nhằm góp thêm một tiếng nói để rộng đường dư luận.
  • Cú va đập văn hóa của đô thị

    28/10/2008Minh QuangViệc chuyển từ một xã hội thuần nông, tiền công nghiệp, hay công nghiệp có trình độ thấp sang xã hội công nghiệp đô thị hiện đại, chắc chắn sẽ tạo ra những biến chuyển xã hội nhanh chóng và mạnh mẽ.
  • Văn hóa thời hội nhập: Sắp xếp trong hỗn độn

    25/03/2008Phạm NguyễnTrong lịch sử văn hóa Việt Nam, ít nhất chúng ta đã trải qua hai lần biến đổi lớn về văn hóa xã hội và phải nói rằng hệ quả của nó đã đưa tới những biến đổi tích cực, theo hướng đi lên của dân tộc. Lần một, sự biến đổi ấy đã kéo dài và phát triển trong ngót nghét hai thiên niên kỷ mà ảnh hưởng của nó là văn hóa phương Đông , rõ nét và mạnh mẽ hơn, nhanh chóng hơn trong một bối cảnh toàn cầu hóa...
  • Văn hóa chưa tác động tốt tới sự phát triển

    29/12/2007Lê Vọng (thực hiện)Năm 2007 sắp khép lại. Trong cuộc trò chuyện cuối năm với TT&VH Cuối tuần, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn - người thường từ phương diện văn học nhìn rộng ra các lĩnh vực văn hóa - thử trình bày một cách nhìn lại đời sống văn hóa – văn nghệ (VHVN) nước nhà trong một năm qua, với tiêu chí “phê bình để xây dựng”. Và từ đó gợi mở đôi điều suy ngẫm về tương lai.
  • Văn hoá và... “văn hoá”

    21/12/2006Lê Thanh ĐứcQuá khứ văn hoá có trở lại được không, quá khứ văn hoá không việc gì phải “trở lại”, nhưng thích nghi, dịch chuyển và tiếp biến liền mạch sang hiện tại và cả tương lai. Hình thái có thể khác, nhưng tinh hoa không mai một...
  • xem toàn bộ