Thanh niên với quốc văn
Đây là bài nói chuyện của Xuân Diệu với các sinh viên, học sinh Việt Nam tại trường Đại học ngày 4-2-1945. Trong phạm vi diễn thuyết Xuân Diệu đã nói sơ qua những quan niệm cần có để gột rửa cái óc nô lệ của người mình trước văn hóa dân tộc...
.
.
Xem thêm cùng tác giả:
- Hàng bia Văn Miếu (1938)
- Tuy lý vương, thi sĩ Tàu (1938)
- Cái học quẩn quanh (1944)
- Công danh với sự nghiệp (1945)
.
Xuân Diệu (1916-1985)
.
Thưa các bạn.
Chưa khi nào tôi nói trước đông người. Lần này nói với các bạn, đó là lần thứ nhất của tôi. Tôi không muốn mang cái vẻ dễ thành ra khôi hài của một nhà diễn thuyết. Đây chỉ là một cuộc trò chuyện, nó có về một câu chuyện tâm tình. Tâm tình với quốc văn, tâm tình của chúng ta đối với quốc văn.
Sinh viên với quốc văn! Sinh viên Việt Nam với quốc văn Việt Nam! Biết bao nhiêu điều các bạn có thể tự tình kể lể với cái hồn của nước ta đọng trong quốc ngữ!
Chúng ta tâm sự với tiếng nói của mẹ Việt Nam, chúng ta nghe rõ trong lòng ta lời nói của mẹ Việt Nam. Vậy tôi chắc các bạn cũng cảm thông với tôi trong cái nỗi niềm dạt dào khi nghĩ đến Mẹ.
I.
Lần này cất tiếng, tôi dám trách các bạn phần nhiều, trong bao nhiêu năm đi học, các bạn đã không được đằm thắm mấy với tiếng của ta. Tôi xin nhắc lại đây cái tình trạng của học sinh Việt Nam đối với quốc văn mười năm về trước. Tôi còn nhớ cái thời 1930 đến 1934, thời tôi học bạn thành chung. Phần nhiều các bạn tôi đều làm lơ, và hầu như không biết đến quốc văn. Các bạn đến trường mà học, thì trường dạy cái gì các bạn học cái ấy, trường chuyên cái gì, các bạn chuyến cái ấy. Vậy nên, cái tình của các bạn đối với quốc văn cũng khinh hay trọng tùy theo cái điểm thì hạch được nhân ít hay nhân lên nhiều.
Các bạn của tôi, thời ấy, đều viết thư cho “mon cher frère” cả; họ coi bức thư như một bài tập để anh họ chấm pháp văn cho. Có cái gì như là khinh khinh đối với quốc ngữ. Vậy nên có bốn giờ cũng liệt vào một hạng, bốn giờ người ta cho là để ngồi nhởn nhơ. Các bạn có nhớ không?
Đó là giờ tập viết, giờ tập vẽ, giờ học chữ Tàu, và, cuối cũng, là giờ học tiếng Việt. Những ông giáo dạy tiếng Nam cũng bị các bạn nhờn như ông giáo dạy chữ Tàu.
Ông giáo giảng văn, các bạn nghe bằng lỗ tai chểnh mảng. Là vì trong khi ấy, nhiều bạn đem ra làm tính, làm vật lý học hay hóa học, cho lợi chút thì giờ. Hay hơn nữa, các bạn vội làm cho xong bài luận pháp văn sắp phải đem nộp! Có gì đâu! Các bạn cho rằng tiếng Nam là một tiếng thường quá; nó không có cái về hệ trọng, cái vẻ “đi học” của những tiếng khác. Các bạn có biết học trò Việt Nam thường làm luận quốc ngữ như thế nào không? Tôi còn nhớ các bạn tôi, nếu phải làm một bài luận quốc văn, thì họ giở ngay quyển vở ra, họ chép đầubài, viết một chủ “Bài làm”; rồi thì, không nháp, khôngngẫm nghĩ, các bạn tôi viết một mạch, cho đến khi hết chuyện nói, thì các bạn tôi cho một dấu chấm hết.
Cái thứ tiếng “nôm na mách quẻ” ấy, vẫn thường nói với đứa ở, với phu xe, với người nhà, thì nay làm luận, các bạn tôi cũng cứ việc thao thao viết ra, cần gì nháp, cần gì sửa chữa! Rồi thì đến giờ chấm bài. Người làm đã khinh xuất, thì người chấm cũng chẳng cho là hệ trọng gì hơn. Ông giáo gọi anh Bình hay anh Bá đứng dậy đọc bài luận; ông chỉ nghe bằng lỗ tai; rồi thì cho điểm. Nào đâu, hỡi các ban! Là cái về hệ trọng, cái về nghiên cứu, cái về chăm chút, khi làm một bài luận phải cân nhắc chữ à, chữ de; chữ par, chữ pour, chữ qui!
Những người học trò càng nhất lớp bao nhiêu, thì khi giảng Hoa Tiên hay Truyện Kiều, họ càng ngơ ngác bấy nhiêu. Họ như anh Mán lạc vào rừng rậm. Một câu Kiều như câu: “Của này bắt được hư không” chẳng hạn, nghĩa là: của này bỗng nhiên vô cớ mà bắt được, thì họ giảng rằng: của này của người ta mà bắt được, thì có hư hay là không! Và cái câu Phan Trần:
Đàn thông phách suối vang lừng,
Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe kinh.
mà chữ “đàn thông” họ không ngần ngại, cắt nghĩa rằng: đàn thông là những cây thông mọc trên núi, gồm lại thành một đàn, như đàn chim chẳng hạn!
Không biết bây giờ các học trò giỏi tiếng Việt Nam có được quý trọng hay không? Chứ thuở tôi đi học, những người ra ver chăm quốc ngữ, thì chúng bạn đều cho là ông đồ, hay nhà nho, với tất cả cái nghĩa chế miệt của những chữ ấy. Còn người nào làm thơ Việt Nam thì ôi thôi! Họ cho là thi sĩ, là “bồ ệt”, nghĩa là cũng đồng một tên đọc nhại với cái xe một bánh chở đất, với cái xe bồ ệt, cái xe brouette.
Ấy đó, phác sơ qua cái tình trang trước kia ở trong các nhà trường. Tình trạng ấy bây giờ có lẽ đã khá hơn, nhưng chắc đầu sự hững hờ lại chẳng vẫn còn một phần lớn?… Có lẽ các bạn tôi cho quốc ngữ là một thứ chữ “hoang”. Mà chữ hoang thật mà! Nào có ai bắt phải học;nó cũng như cỏ hoang mọc bừa bãi ngoài đồng, nào có ai chăm chút trông nom. Nó là thứ cây không có trái, hay là có trái mà trái ấy không nuôi các bạn tôi được, nên thật chẳng cần phải vun trồng.
Phong bì, tem kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Xuân Diệu
*
* *
Nay những học trò đã thành những sinh viên. Các bạn sinh viên của tôi! Các bạn cũng hẳn thấy trước tôi rằng: sinh viên với quốc văn có nhiều bổn phận. Các bạn hẳn cũng nhớ trước tôi, cái truyện rất hay của Alphonse Daudet tả cái buổi học cuối cùng (La dernière classe). Và Alphonse Daudet kết luận: “Một dân tộc nào mà còn giữ được tiếng của dân tộc ấy, thì dân tộc ấy cũng như giữ cái chìa khóa để tự giải thoát cho mình”. Tiếng quốc ngữ là cái chìa khóa mở của cho cái thế giới của linh hồn, cho cái thế giới sống còn, xin anh em đừng có đánh rơi mất chìa khóa!
Sinh viên Việt Nam ta thật mang không biết bao nhiêu là bổn phận, không biết bao nhiêu là nợ phải trả, bao nhiêu là việc phải làm. Vậy thì sinh viên chia việc ra mà làm. Mà trong những việc hệ trọng, tất phải có cái việc ra sức vì quốc văn. Sinh viên là những học sinh bậc nhất, những thanh niên may nhất, học cao nhất.
Nếu sinh viên, bên cái học nhà trường không nghĩ đến cái học quốc ngữ, thì chẳng lẽ những người nhiệt tâm với quốc ngữ đầu là những người khác hay sao?
Các bạn được thông thái hơn cả trong thanh niên, hấp thụ văn minh hơn cả những người khác không may mắn; cái thanh niên tri thức ấy mà không làm việc cho quốc ngữ, thì tất là bỏ công việc cho những người kém học hơn mình.
Điều thứ nhất là trong lòng sinh viên nào cũng phải có một lòng yêu thương quốc văn; học trò Việt Nam mà không yêu văn Việt Nam, thì sao cho được!
Bạn tôi là một người có hai mẹ. Người mẹ lớn, vợ cả của thầy anh, đối với anh có biết bao là oai quyền. Nhưng người mẹ nhỏ, là mẹ sinh ra anh, tuy cam phận tiểu linh, mà lòng anh hằng khóc thầm với mẹ. Anh có thể xu phụ theo mẹ lớn để được tiền của, cửa nhà, được ăn sang mặc đẹp; nhưng riêng lòng anh vẫn có một phần thiêng liêng nhất, âu yếm nhất, dành cho mẹ đẻ của anh. Cái phần ấy, lắm khi anh phải che dấu đi, không dám cho mẹ lớn anh trông thấy; nhưng càng che đấu lại càng thắm thiết, càng lấp vùi lại càng nóng hổi, càng chặt đẽo lại càng nở lộc, đâm chồi.
Văn quốc ngữ là một thứ văn hoang, nên anh em mới càng phải vun xới. Phải chăm nom cho nó, kẻo nó héo hắt rụng tàn. Anh em đi chơi, anh em đi học, anh em không nghe tiếng quốc ngữ nó kêu gọi anh em hay sao? Anh em không nghe tiếng mẹ gọi hay sao? Anh em nỡ nào mà hững hờ cho được!
II
Vậy thì, trong phần thứ hai của câu chuyện, tôi xin nói những công việc, mà tùy tài năng, tùy khuynh hướng, anh em sinh viên phải làm.
Nước ta thiếu văn dịch. Thì một số sinh viên, lúc học bài trong lớp học, đã có khiếu về môn tiếng ngoại quốc, những sinh viên ấy chăm học thêm, ngoài tiếng Pháp đã đành, còn tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng các nước. Để anh em sau này sẽ dịch những văn hay các nước, dịch thẳng từ nguyên văn sang tiếng mẹ đẻ, mà khỏi đi qua cái cầu tiếng Pháp. Là vì hiện giờ, người Việt ta đang chịu chung một cái thẹn văn học. Các nước người ta đầu dịch văn ra một lần, chứ chẳng ai dịch văn ra đến hai lần cả. Nếu dịch là phản, mà phản đến hai lần thì còn gì! Họa chăng chỉ có chúng ta mới chịu nhai lại một lần thứ hai, một áng văn mà người ta đã nhai lại một lần thứ nhất.
Ta tưởng tượng, nếu cứ cẩu thả như vậy thì một người Cao Miên biết tiếng Việt, thấy một bản dịch Anna Karenine đã dịch từ tiếng Pháp sang, bèn đem dịch ra tiếng Miên cho tiện việc. Rồi một người Lào biết tiếng Miên sẽ đem dịch ra tiếng Lào. Rồi những người ở trên rừng xứ Lào lại dịch tiếng Lào ra tiếng họ. Cuối cùng, bản Anna Karenine sẽ thành ra bản Werther!
Theo ý tôi, nếu chúng ta muốn dịch văn mà lại qua đến hai lần, thì thà chúng ta nhịn hẳn cái món ăn phương xa ấy vậy. Khi mà người Việt đã có một trường Đại học, thì người Việt sao lại chịu đi vay hai lần như thế. Những con ong đi hút nhị phương ngoài về cho người Việt, chẳng phải đã có sẵn ở đó sao? Đã rõ ràng ở đó sao? Đó là những sinh viên Việt Nam! Sinh viên không thể từ chối được cái phận sự ấy. Vả chóng chầy thì chúng ta cũng có được những áng văn dịch ra tự nguồn.
.
.
Vậy anh em ta phải làm sao để có thể tự hào rằng: người Việt Nam cũng có một bản dịch Faust, hay một bản dịch Hamlet, một bản dịch Anna Karéine chẳng hạn, mà sát nguyên văn và thoát nghĩa hay là hay hơn những bản dịch của Pháp, của Espagne, hay của nước Nhật, nước Tàu.
Một số sinh viên khác sẽ khảo cứu những tinh túy của văn cổ ta, được chút nhị nào là hút ra chút ấy, để góp tất cả cái đặc sắc của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, của Thị Điểm, Xuân Hương, hay của Phạm Thái, Nguyễn Văn Thành v.v…, góp những cái tinh hoa ấy mà làm nên một phần của cả linh hồn quốc gia dân tộc. Cái gia tài văn học của cha ông ta để lại, hiện nay ta chưa khai thác gì cả. Tìm ra một ít tài liệu, chưa hẳn là khai thác ra đâu; tất phải rút trong những áng văn xưa cái mặt nhụy tinh thần của chúng. Ta cứ xem người Âu họ học các tác giả của họ kỹ lưỡng đến chừng nào! Anh em sẽ nhận cái tinh thần có phương pháp của họ mà xem lại những văn xưa, chẳng a dua, chẳng lặp lại những điều thiên hạ vẫn nói mãi. Mà trái lại, lấy con mắt không thành kiến của một thanh niên mới, để khám phá ra những châu báo mà chưa ai biết nhìn. Ở bên Tàu gần đây, ông Hồ Thịch đỗ bác sĩ ở nước ngoài, mà về nhà, bác sĩ đem phẩm hình trở lại những áng văn xưa, và bác sĩ đã thấy thấu đáo hơn những người từ trước đến nỗi như bác sĩ đã phun một cải linh hồn mới, cho những áng văn cổ sinh ra một lần thứ hai.
Ví dụ, nói đến Truyện Kiều của ta, từ trước đến nay, động mở miệng là người ta hùa nhau bảo rằng: Truyện Kiều là cái “tâm sự di thần” của Nguyễn Du; Nguyễn Du làm tác phẩm ấy là để ngụ cái cảnh mình, tôi cũ nhà Lê, mà về với nhà Nguyễn. Thưa anh em hiểu như vậy thì cũng bằng chẳng hiểu gì!
Theo ý tôi, chủ trương như thế thì thật là trẻ con, thật là chẳng hiểu gì về sự sáng tạo nghệ thuật cả. Tôi thiết tưởng Nguyễn Du trước khi là một ông quan thì là một con người cái đã. Nguyễn Du viết ra Truyện Kiều là vì thích viết, cần viết; là vì từng ngắm bóng trăng, là vì đã nghe gió thổi, là vì có cái hay, cái đẹp ở trong lòng nó réo rắt, nó đòi bộc lộ ra ngoài. Một bậc thiên tài như Nguyễn Du há lại chẳng biết rằng những sự đổi triều cũng chỉ là những việc vặt, không đáng phải làm cả ba nghìn hai trăm năm mươi bốn câu thơ để thở than. Cái kiếp người ở trong tác giả Nguyễn Du còn hệ trọng nhiều hơn nữa.
Ấy đó, ví dụ một điều nông nổi, chật hẹp của cái nghị luận thông thường. Anh em phải là những người thấy những chỗ cạn hẹp của những thứ nghị luận, nghiên cứu ấy.
Ngoài hai bổn phận: phiên dịch và nghiên cứu, anh em còn có một bổn phận tối cao, là sáng tác. Đã đành rằng: muốn sáng tạo, muốn viết ra những văn phẩm, thì phải có khiếu riêng, có tài trời cho sẵn. Nhưng nếu ta cứ chăm chú, cứ luyện tập, thì tự nhiên cái mầm tài cũng phải lộ ra. Còn như không để ý gắng công trước, mà tự cho rằng mình không có khiếu, là một sự vội tin theo số mệnh. Tôi chắc chắn rằng: nếu bao nhiêu học trò thời nay đều học quốc ngữ mãi từ lúc lên mười đến hai mươi tuổi. thì cái số nhà văn Việt Nam sẽ nhiều lên gấp một trăm lần. Vả số nhà văn đã nhiều thêm, thì tất có nhiều may mắn hơn để có những nhà văn siêu việt. Trường văn trận bút sẽ đông đúc tấp nập, rủ nhau đi như một bọn người tìm đất mới, chứ không lơ thơ lẻ tẻ như cái cảnh chợ chiều hiện nay.
Hễ cứ học mãi thì cái khiếu trong người mới được kích thích, được nổi dậy. Mà nếu cứ làm lơ thì dù có tài sẵn, cái tài cũng chết đi, uống phí mà thôi.
Và tất cả các anh em, người có khiếu để phiên dịch, nghiên cứu, hay sáng tác, cũng như những người không có khiếu gì riêng biệt, tất cả đều có một việc làm chung, là ủng hộ cho văn Việt Nam. Tất cả phải tỏ rằng anh em xem đó là một chuyện nhà, chứ chẳng phải là một chuyện ngoại quốc, tất cả phải tỏ rằng vui, rằng thích cái trường văn Việt Nam. Đừng có cái thái độ hững hờ, không xem, không đọc. Trong thâm tâm của chúng ta đây, chúng ta có thế không giật mình nghiệm thấy nỗi hờ hững của chúng ta hay không?
Những tác phẩm của văn chương Việt Nam mà không dội đến trường Đại học hay sao? Tôi tưởng tượng ở nước người, một tác phẩm xuất hiện ra mà hay, thì các sinh viên nước họ phải hoa tay múa chân, luận luận, bàn bàn, làm như ở trong trời đất mới sinh ra một của lạ. Họ không bao giờ chịu theo sau dư luận, và tình nguyện đi trước phong trào. Tôitưởng tượng ở bên Pháp những người trẻ tuổi khi họ đi ủng hộ cho bản kịch Hernani, ủng hộ kỳ cho bản kịch ấy thắng trận, phần đông chắc hẳn là những sinh viên, những thanh niên học hội họa. Sinh viên họ ở mọi nơi, ở trong cuộc dẫn đầu tư tưởng hay hưởng ứng văn học.
Còn như ở nước ta bây giờ, thảng hoặc có những tác phẩm hay bằng quốc văn xuất hiện, thì chưa chắc anh em đã biết đến, để đến nỗi thành ra những kẻ ở ngoài phong trào. Cuộc cách mệnh thi ca của ta gay go trong mười năm trời nay, là công trình của ai ai. Đến khi thắng trận, cũng chẳng phải sinh viên ca khúc khải hoàn. Mà còn gì khuyến khích các văn gia Việt Nam bằng cách yêu mến, cổ võ của anh em sinh viên!
Làm sao cho cái lâu đài văn học Việt Nam có xây lên, thì anh em cũng là những kẻ đã góp phần. Chứ một ngày kia lâu đài ấy có rạng rỡ, chẳng lẽ anh em tưởng rằng nó tự trên trời rơi xuống hay sao? Anh em sẽ giận mình biết bao, nếu trong khi người ta lo khuân gạch, vác cây, mà anh em cũng chẳng có lấy một tiếng “hò khoan”, gọi là góp câu thúc giục.
Cái công việc dễ nhất và cũng có hiệu quả, là góp tiếng reo hò đó, các bạn ạ. Reo hò làm sao cho xứng đáng là tiếng reo hò của sinh viên, phê hình làm sao cho cái dư luận của sinh viên là cái dư luận đúng nhất, và làm thế nào cho ai nấy cũng thỉnh cầu, e sợ cái thanh nghị chắc chắn của sinh viên!
(Còn nữa)
Nguồn:
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/20147 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh Linh