Người Việt ngậm tăm

10:15 SA @ Chủ Nhật - 29 Tháng Giêng, 2012
Chuyện dân mình ưa ngậm tăm sau khi dùng bữa. Vì thói quen đó được đa số trong cộng đồng chấp nhận, "thực hành" nên đã có không ít người quy nó vào phong tục, văn hóa dù cho các nha sĩ luôn khuyến cáo không nên dùng tăm xỉa răng, như thế sẽ làm cho nướu, chân răng dễ tổn thương, gây các chứng bệnh về răng. Gần đây cũng đã xảy ra một vài ca cấp cứu thủng đại tràng vì giỡn tăm bằng... miệng.

Nhưng người ta vẫn thích nghịch tăm sau khi ăn như một thói quen đầy ngoan cố. Hơn thế, như một thứ bệnh nghiện hết thuốc chữa.

Tôi đã thử truy tìm nguồn gốc, ngõ hầu lý giải cho "hành vi" này, nhưng sách vở đành bất lực. Tôi đem vấn đề trao đổi với một số chuyên gia, nhà nghiên cứu văn hóa và ghi nhận được một số kiến giải khả dĩ ở góc độ căn nguyên, động cơ của hành vi.

Có người quan tâm đến văn hóa dân gian, cho rằng đời sống văn hóa làng xã trong quá khứ của người Việt quanh năm vần xoay trong lễ lạc cúng quảy. Hết thảy những câu chuyện làng nước, tương tác được đàm đạo quanh mâm rượu thịt đề huề, nên ngậm tăm là cung cách để giữ hình ảnh (thể diện) vệ sinh trong giao tiếp trên mâm cỗ. Ngậm tăm, về mặt biểu tượng cũng thể hiện sự no đủ, hay dấu chỉ cho người đối diện thấy mình mới dùng bữa xong. Có một câu chuyện người ta hay kể trên bàn nhậu, rằng xưa có một anh nông dân bần cùng thế nhưng ưa sĩ diện, lúc nào cũng ngậm tăm tỏ ra ta đây no đủ. Một hôm người ta phát hiện anh ta chết vì đói quá nuốt phải cây tăm.

Một chuyên gia khác lại cho rằng, chuyện xỉa răng là hậu quả của việc bỏ tục ăn trầu nhuộm răng của phụ nữ xưa. Người ta thay trầu bằng một que tăm, ngoài việc làm sạch miệng thì cũng đỡ thừa thãi hai tay và đỡ buồn miệng. Trong khi đó, một chuyên gia quan tâm đến nha khoa và nhân trắc học thì cho rằng, sự vụ này có liên quan đến đặc thù phát triển về khung hàm, sự bố trí răng của người Việt: do dùng chất xơ, thức ăn sống, thói quen thích nhai nghiền phần thịt xương, nên hầu hết người Việt đến tuổi trưởng thành thì khoảng cách giữa các chân răng có xu thế thưa ra, dễ gây chứng mảng bám, hôi răng nên xỉa răng bằng tăm tre là một thói quen hợp vệ sinh đối với nhiều người.

Mỗi chuyên gia có một trường quan tâm thì sẽ lấy "chuyên ngành" của mình ra mà tha hồ giải mã. Mỗi một cách lý giải đều có sự thú vị của nó.

Song tôi lại muốn "bẻ lái" câu chuyện sang một hướng khác, khi quan sát việc "thực hành" xỉa răng và ngậm tăm không chỉ diễn ra như một lý do giữ vệ sinh răng miệng sau khi ăn, mà còn là một căn bệnh nghiện. Hãy thử quan sát, trên thực tế, đâu chỉ có người có răng thích ngậm tăm sau khi ăn, mà đến những cụ già không còn răng cỏ, trệu trạo nướu trơn không bỏ được thói quen ngậm (nghịch) tăm trên miệng, vừa nói vừa chìa mũi tre nhọn bén vào mặt người đối diện, thậm chí, đâu phải người mới dùng bữa mới ngậm tăm, hãy xem một số cô cậu thanh lịch, đặc biệt ở Hà Nội, rất tự tin ngậm cây tăm trên miệng lái xe tay ga dạo phố hoặc bước vào siêu thị dù bữa ăn chính đã xong trước đó vài giờ đồng hồ.

Với người này, cây tăm chỉ có thể là ngậm chơi, nhưng với người kia, cây tăm được lừa đi lừa lại, cắn gãy khúc, nhai giập, làm biến dạng trước khi chu môi máng chặt, vận khí từ trong khoang miệng, bắn một phát vô hướng vào khoảng không.

Ngạc nhiên quá xá trước thói quen ngậm tăm của người Việt, cây bút Drew Taylor, sau nhiều năm sống ở Việt Nam, đã mô tả thật hài hước: "Xỉa răng quá nhiều! Sau bữa ăn, thể nào cũng thấy mọi người chuyền tay nhau ống tăm xỉa răng. Người cần cũng xỉa, mà người không cần cũng xỉa! Và từ không-cần-cũng-xỉa lại sinh ra cần-phải-xỉa (vì ghiền hoặc vì kẽ hở giữa răng đã rộng ra mất rồi!). Đành rằng xỉa răng vì nhu cầu vệ sinh, nhưng nhiều người sau khi xỉa xong đồ dơ trên răng rồi lại bắt đầu nhai cây tăm - chính cái nhai ấy mới là hành động thừa gây nghiện. Người ta có thể ngồi xe máy mà cây tăm vẫn còn máng ở một bên mép; có thể vừa nói chuyện vừa gặm tăm..." (Phân tâm học Freud: "Miễn vui là được rồi!", Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, số 168/2010). Anh Tây này tự hỏi không biết Freud sống lại ở Việt Nam thì ngành phân tâm học của ông ta sẽ ra sao.

Thực ra, nhìn bệnh nghiện ngậm tăm dưới ánh sáng phân tâm học cũng có nhiều điều thú vị. Freud cho rằng, có bốn giai đoạn phát triển cơ bản về tâm lý tiền sinh dục với một đứa trẻ: giai đoạn miệng (oral stage), giai đoạn hậu môn (anal stage), giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage) và sau đó bước sang thời kỳ phát triển ngấm ngầm (latency period). Đáng chú ý, ở giai đoạn miệng, đứa trẻ sơ sinh tìm thấy khoái cảm, cảm nhận tình yêu trong việc bú sữa. Trong giai đoạn này, theo Freud, nếu đứa trẻ dễ được mẹ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng qua việc bú mớm, thì nó sẽ có một nhân cách dễ bị lệ thuộc ở tuổi trưởng thành; ngược lại, nếu không được mẹ đáp ứng, thiếu sự chăm sóc, thì ở tuổi trưởng thành, nó sẽ trở nên chìm đắm trong bất an, lo lắng, thất vọng. Đây gọi là tâm lý "cắm chốt" (oral fixation) - những ẩn ức chuyển hóa thành hành động vô thức có nguồn gốc từ những kích động tâm lý ở giai đoạn lỗ miệng.

Như vậy, nếu lý giải theo thuyết này của cha đẻ phân tâm học, thì sẽ thấy rằng, việc ngậm tăm xuất phát từ truyền thống văn hóa cưng chiều bảo bọc con cái trong thời bú mớm của những bà mẹ Việt Nam đã vô tình "cài đặt" một thói quen thỏa mãn khoái cảm vùng miệng rất lạ lụng khi những đứa trẻ trưởng thành, mà có khi chính chúng cũng không ý thức rõ ràng về cái "đường dây dẫn dắt" thói quen đó. Cũng có lý, khi mà nhiều gia đình hôm nay xem việc một đứa trẻ tự bưng lấy chén cơm ăn, tự dùng tăm xỉa răng sau bữa ăn là một hành vi không cần bắt chước đơn thuần, mà được coi là có khả năng tự chăm sóc bản thân thay vì đeo đẳng đòi vú mẹ.

Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, thói quen hay bệnh ghiền ngậm tăm của người Việt lại đưa đến một hình ảnh mang tính ẩn dụ, biểu lộ một thái độ sống, phương cách hành xử: "ngậm tăm" cho qua chuyện. Ngâm tăm trong trường ẩn dụ, được trang Xa lộ từ điển trên mạng định nghĩa là: biết đấy nhưng phải lặng im (To know it but forced to keep silence).

Làm sao để có thể giải mã điều này? Đến lúc cần phải dông dài viện dẫn đến lịch sử văn hóa người Việt, một lịch sử đối diện với quá nhiều bất trắc, khó khăn triền miên. Trong đời sống được đan cài đa tuyến, phức tạp đó, việc con người, từ dân đen đến kẻ quyền lực, hình thành cái phản xạ sinh tồn là nương tựa làng nước, tập thể đồng thời cũng luôn trong tình trạng thường trực đề phòng. Sự "ngậm tăm" kia cũng đến từ việc thiếu sự bình đẳng, sự minh bạch. Nhưng điều đáng nói, từ những nguyên nhân khách quan trên, "ngậm tăm" đi vào vô thức cộng đồng, nó trở thành một tập tính, quy định phương thức hành xử, lựa chọn thái độ sống tự thân của từng thành viên xã hội.

Ở đây, có một khía cạnh khác, đáng nói, đó là "ngậm tăm" không những lặng im che giấu cái biết, sự thật để cầu an, mà đôi khi, việc "ngậm tăm" cố tình làm cho tiếng nói của mình bị méo mó, đánh lạc hướng, làm nhiễu sự thật còn là một tình trạng đáng sợ hơn.

Từ cái nguyên lý "oral fixation" có thể thấy rộng ra, sự thích được dựa dẫm, bảo hộ, mất tự chủ, thiếu vắng ý thức trả giá cho ngôn luận cá nhân, không khí nghi kị lẫn nhau đã làm cho hiện tượng tính cách "ngậm tăm" trong cộng đồng có xu hướng phổ biến. (Gần đây, trên Facebook, xuất hiện một hội nhóm giễu nhại, có tên "hội những người thích ngậm tăm" với slogan "Đơn giản là thích ngậm tăm! Ngậm tăm mọi lúc mọi nơi!’. Những cá nhân nương náu vào tập thể, đam đông để "ai sao mình vậy", dễ dàng xuê xoa nhắm mắt làm ngơ cho qua mọi thứ theo tinh thần "im miệng cho nó lành" đã đưa đến tình trạng "ngậm tăm" như một sự thỏa hiệp, cam chịu. Trong lớp học, trên giảng đường, học sinh, sinh viên không buồn trao đổi, đặt câu hỏi, phản biện để truy cầu đến cùng những hiểu biết; trò phải nương theo thầy để được "qua truông". Trong cơ quan, lính thấy cái sai của sếp, sếp biết thói hư của lính nhưng lại "ngậm tăm" bao che, bắt tay nhau trong một "liên minh ma quỷ", bảo toàn sức mạnh chống cự trước các bè phái khác ngừng đấu đá. Ngoài xã hội, người ta dễ dàng lảng tránh trách nhiệm chứng nhân cho lẽ phải, sự thật để được yên thân với ý nghĩ, đó không phải là việc của mình. Trong gia đình, mọi thứ tuân thủ theo một thứ bậc truyền thống trên bảo dưới nghe, thiếu sự dân chủ cần thiết để các thành viên tôn trọng lẫn nhau với tư cách những cá nhân bình đẳng.

"Ngậm tăm" còn là sự dung túng, che đậy cho cái xấu, cái ác, cái phản tiến bộ và chống lại sự minh bạch cần thiết trong các mối quan hệ, tổ chức quản lý xã hội, làm cho đời sống được vận hành trong sự nhập nhèm, nhiều bất trắc, đầy ma mị và nghi hoặc.

Im lặng là vàng. Nhưng im lặng theo lối "ngậm tăm" cũng là thứ vàng giả, gây nhiễu, đánh lận mọi giá trị. Khi mà việc "thực hành ngậm tăm" trở thành một chứng nghiện được "nâng quan diểm" thành một tính cách văn hóa của cộng đồng thì tiếng nói đúng đắn, sự thật tiến bộ là những thứ bị vùi lấp không thương xót.

"Ngậm tăm" được xem là cách đánh đổi và hy sinh cái biết, có khi cả lương tâm liêm khiết để chỉ được tồn tại trong một đám đông ràng buộc theo nguyên tắc thỏa hiệp đề huề tự phát. Ở đó, mỗi người tìm đến sự an toàn tính thế, để rồi có thể là nạn nhân của chính mình lúc nào chắng hay.

Cuối cùng là một chút hài hước về mặt thẩm mỹ khi trở về nghĩa đen trong câu chuyện. Hãy nhìn cô gái trẻ xinh tươi mang trên miệng một chiếc tăm tre tẩm hương quế đang tự tin cưỡi chiếc Vespa lướt trên phố. Bạn say đắm chiêm ngưỡng và tự hỏi, điều gì đang xảy ra trong vô thức của nàng?

Làn môi gợi cảm ấy đang che giấu điều gì khi mũi nhọn của que tăm vun vút lao về phía trước, ẩn tàng biết bao hiểm nguy trong một buổi trưa lãng mạn chết đi được!

Nếu được sống lại ở đây, hẳn ông Freud sẽ phải viết thêm vài chương sách thật lý thú và không quá khó hiểu, đại khái về phân tâm học và tính cách người Việt Nam thông qua chứng nghiện... "ngậm tăm".

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Về tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21

    09/05/2008Phong DoanhĐây là lần thứ hai trong cuốn sách nhỏ này tôi lại viết về tre, cây tre Việt Nam. Nói như ai đó, đã ngàn đời nay tre và người là đôi tri kỷ. Tre mọc thành bụi, thành bờ, thành lũy trong mọi làng quê. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài "tre xanh" có câu " thân gầy guộc lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi"...
  • Thói hư tật xấu của người Việt: nhiều mâu thuẫn, phá hoại, thiếu khiêm nhường

    13/04/2018Vương Trí NhànChẳng có mặt nào của tính cách người Việt lại không có mặt bù lại và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đã nói vế tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy...
  • Thói hư tật xấu của người Việt: Lãng phí, mất gốc, học đòi

    28/03/2018Vương Trí NhànNhững chốn ăn chơi của Hà Nội là nhất Bắc kỳ, cái đó rành rành không ai chối cãi. Nhưng chúng ta phải buồn phiến mà nhận ra rằng những hiệu cao lâu có danh và bền vững đều là của người Tàu. Về cách tổ chức một chốn ăn, về danh vọng của một ngôi hàng cơm thật quả chúng ta không có nền nếp tục lệ và quy củ...
  • Cử chỉ thông thường của người Việt

    26/09/2017Phan Cẩm ThượngCùng chiều với tính cách nịnh hót là tính cách ưa nịnh nọt, thích quà biếu, thích khen thưởng, thích tâng bốc cũng đồng thời thích được nghe nói dối và o bế những kẻ tâng bốc mình và không bao giờ chấp nhận phê bình. Dân tộc đã có nhiều cơ hội phát triển, nhưng rồi lại chậm lại, thậm chí thụt lùi chỉ vì những tính cách này. Đó là bài học chưa bao giờ được tiếp nhận.
  • Bốn thói xấu của người Việt đương đại

    19/07/2017Nói “của rất nhiều người Việt ” là để dễ lọt tai, thật sự cầu thị thì phải nói là Một số thói xấu của người Việt thời nay bởi vì những thói xấu này đang rất thịnh hành và phổ biến. Nói “người Việt hiện nay” là để giới hạn thời gian trong một số những thập kỷ gần đây, có thể người Việt xa xưa và người Việt trong tương lai không mắc những thói xấu này.
  • Thói ngụy biện ở người Việt

    28/02/2017BTĐTrong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
  • Người Việt có xấu xí thật không?

    07/06/2016Linh ThủyNgười Việt xấu hay không xấu không phải bởi vì họ vốn thế. Đó không phải là những giá trị bất biến, và tất nhiên là không đáng bi quan.
  • Đời sống tinh thần người Việt trong xã hội hiện đại

    04/04/2016Quỳnh Nhi thực hiệnĐời sống tinh thần người Việt trong xã hội hiện đại là một vấn đề đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội, đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ. Những năm gần đây, làn sóng toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế đã khiến cho nhiều dân tộc, trong đó có người Việt chúng ta, đôi khi đứng trước những lựa chọn khá nan giải. Hình ảnh người Việt sẽ như thế nào sau vài ba chục năm nữa đi theo tiến trình toàn cầu hóa?
  • Thói hư tật xấu của người Việt: không thật bụng, không hết lòng

    14/03/2016Vương Trí NhànTất cả các nước, không nước nào giao thiệp qua lại chặt chẽ với nước khác, mà không được cường thịnh. Có điều là tôi đã quan sát tình tình thiên hạ thì thấy rằng họ dễ giao thiệp với người, tính tình của ta thì quá khác người, cho dẫu muốn chọn lựa để giao thiệp cũng sợ việc khó thành...
  • Chỉ tên những tật xấu của người Việt thời nay

    01/03/2016TS Phạm Gia MinhChúng ta hãy cùng nhau lên một danh mục, tạm gọi là “Danh mục các thói hư, tật xấu của người Việt thời nay" nhằm “vạch mặt, chỉ tên” càng chính xác càng tốt những biểu hiện tinh vi và đa dạng của nó.
  • Tính ồn ào lắm chuyện của người Việt

    09/11/2015Phạm Hy SơnVì tính lắm chuyện của người mình, một số người Việt sợ ở gần hay giao tiếp với người Việt. Những người này một phần có lý nhưng một phần mắc cái tính thông thường sẵn có của chúng ta, đó là tính tự cao tự đại coi mình thuộc thành phần ưu tú, cao quý nên xa lánh nhóm người mà họ cho là ô hợp, thấp kém. Thế nhưng đôi khi giao tiếp với người quen họ lại đem nhà, đem xe, đem con cái, bằng cấp... ra khoe và không quên chê bai, đàm tiếu người khác hết lời. Tưởng sao, như vậy mèo vẫn hoàn mèo.
  • Người Việt sống bằng hành động nhiều hơn suy nghĩ

    15/10/2015Minh Phương (thực hiện)Một đặc tính của dân Việt là sống hời hợt, thường phản ứng vội, theo phong trào, ra quyết tâm nhưng ít đi tới cùng. Quan niệm ăn sâu “nói thì dễ, làm mới khó”, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn đề cao hành động hơn suy nghĩ, không có sự nghiền ngẫm sống…
  • Thói hư tật xấu của người Việt: học bề ngoài, khách sáo

    27/09/2015Vương Trí NhànNgười mình vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa, nghĩa là có tư cách, dễ am hiểu dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với mình, dễ đem những điếu hay điều dở của người ngoài mà hóa làm của mình, nhưng cái tài đồng hóa đó thường thường chứa cái khóe tinh, biết xem xét và bắt chước của người, phảng phất ở bề ngoài, chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để, chỗ tinh túy
  • Thói hư tật xấu của người Việt: Một quan niệm đơn sơ về thế giới

    03/08/2015Vương Trí NhànSự đơn điệu nghèo nàn là cảm giác chính trong Nhất Linh sau khi dự Hội chợ Hàng Việt Nam năm 1934 mở ở Nhà Đấu xảo Hà Nội. Thời nay, khi làm hàng xuất khẩu, người mua các nước cũng thường chê hàng Việt mẫu mã đơn giản, có học lỏm được cái gì của người khác thì cũng chỉ loay hoay ở vài cái lặt vặt mà không biết khai thác hết những khả năng đa dạng có thể có...
  • Thói hư tật xấu của người Việt: quen lêu lổng, ăn chơi, cờ bạc

    21/07/2015Vương Trí NhànUổng thay! Từ già đến trẻ, từ nam đến nữ đều luống những đêm ngày. Nghe ai cho vay thì mừng hớn hở, hỏi rồi nào lo trông trả? Vì vô nghề nghiệp nên mới sinh tệ trong xứ như thế. Làm người phải biết thương cái thể diện của mình!
  • Nhận diện lại tính cách người Việt

    07/07/2009Giáo sư Hoàng Tụy cho biết từ lâu, qua kinh nghiệm giảng dạy, ông đã nhận thấy một số đặc điểm có tính hạn chế chung của nhiều thế hệ học trò: thiếu một khả năng đào sâu trong tư duy, thiếu đầu óc tưởng tượng, thiếu khả năng kiên trì, đi đến cùng trong những tham vọng đạt đến bằng được những thành tựu đỉnh cao. Kinh nghiệm đó buộc ông phải suy nghĩ đến những hạn chế trong tính cách của người Việt nói chung.
  • Hội thảo về sự “xấu xí” của người Việt

    23/03/2009Tùng NguyênDù còn nhiều quan điểm bất đồng về nguyên nhân dẫn đến tâm thế, tư duy và lối sống của người Việt hiện nay nhưng hầu hết các học giả đều cho là: người Việt hiện nay… xấu xí...
  • Người Việt không xấu xí

    05/02/2009Nhà văn Nguyễn Quang ThânXem ra trong cuốn "Người Trung Hoa xấu xí" của Bá Dương, cái đức xấu nhất, nổi tiếng nhất, mà từ nhà văn Lỗ Tấn đến ông Bá Dương đều nhấn mạnh là phép thắng lợi tinh thần vô địch của người Trung Hoa.
  • Người Việt và căn bệnh ”Đáng là bao”

    14/10/2008Nguyễn ĐứcThử hỏi có bao nhiêu vị lãnh đạo đủ thanh liêm kỷ luật nhân viên chỉ vì lỗi hành vi biếu quà?
    Nếu làm một bản liệt kê chi tiết N "kể tội" sự lãng phí của người Việt có lẽ cái danh sách ấy sẽ dài bất tận…
  • Thói hư tật xấu của người Việt: tang ma xa xỉ, hủ bại

    04/10/2006Vương Trí NhànCó người nhân việc cha mẹ chết, muốn lấy tiếng là có hiếu mà giết bò, giết dê thổi kèn đánh trống ầm ĩ suốt ngày, lấy việc buồn làm việc vui. Bạn bè thân thích, họ hàng làng xóm đáng lẽ không nỡnhìn cảnh xa xỉ phí phao ấy, như thế mớiđúng. Nay lại đòi hỏi rượu tiền, sắm lễ vật, thử hỏi đạo làm người có nên như thế không?
  • “Để người Việt Nam tự nhận thức...”

    12/09/2006Nguyên An thực hiệnTự nhận là đang làm công việc “chưa ai khai phá”, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, “người hay nói về nhược điểm của đồng nghiệp”, đang góp nhặt những lời người xưa cảnh tỉnh về thói hư tật xấu của người Việt từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau và dự định sẽ in thành sách. Chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông về công trình này...
  • Hạn chế của tư duy, nhận thức người Việt

    09/09/2006GS, TS Tô Xuân Dân và TS. Nguyễn Thành CôngXét về mặt bản chất, tư duy, nhận thức của người Việt Nam có một số hạn chế cần khắc phục sau đây: Bệnh "cá nhân chủ nghĩa". Trong một thời gian khá dài, tại các đợt học tập chính trị, chỉnh huấn từ những năm 1952 - 1960 đều lấy việc chống chủ nghĩa cá nhân làm chủ đề chính cho các sinh hoạt và rèn luyện đạo đức, tư tưởng...
  • xem toàn bộ