Đời sống tinh thần người Việt trong xã hội hiện đại
Xem thêm:
Đời sống tinh thần người Việt trong xã hội hiện đại là một vấn đề đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội, đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ. Những năm gần đây, làn sóng toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế đã khiến cho nhiều dân tộc, trong đó có người Việt chúng ta, đôi khi đứng trước những lựa chọn khá nan giải. Hình ảnh người Việt sẽ như thế nào sau vài ba chục năm nữa đi theo tiến trình toàn cầu hóa? Liệu cái gì có thể đóng vai trò là “van an toàn” để con người Việt
Vấn đề rất khó và rất phức tạp này đã được Phóng viên báo Văn nghệ trao đổi với TS. triết học văn hoá Hồ Sĩ Qúy, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người, tác giả của một số công trình gần đây đã gây được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc: chẳng hạn, cuốn sách “Về văn hoá và văn minh” (Nxb CTQG, 1999); cuốn “Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội” (Nxb KHXH, 2000) và các bài viết khác của ông về triết học và văn hoá, về giá trị Đông Á, v.v...
PV:Người Việt đi qua thế kỷ XX đầy biến động, anh hùng đã biến đổi như thế nào về đời sống tinh thần so với hồi đầu thế kỷ, so với những năm trước Cách mạng?
TS. Hồ Sĩ Qúy: Câu hỏi rất hay. Nhưng có lẽ sẽ là nông nổi nếu ai đó trả lời trong một vài câu ngắn ngủi. Mới đây, tháng 9/2000, đã có cả một Hội thảo khoa học quốc tế “Việt Nam trong thế kỷ XX” nhằm trả lời cho câu hỏi này, thế mà vấn đề vẫn còn khá ngổn ngang. Tôi thuộc lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì mà tôi có thể đem so sánh với trước đó đều chỉ là những so sánh có tính chất sách vở (“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, các cụ dạy thế mà!). Sự thực thì, người Việt đã biến đổi rất nhiều trong thế kỷ XX, đặc biệt về đời sống tinh thần, nhất là trong những thập niên cuối. Có nhiều biến đổi rất đáng mừng. Do khuôn khổ của một bài phỏng vấn không cho phép dẫn ra những số liệu minh họa, tôi chỉ xin nói tới những biến đổi về mặt định tính:
- Thứ nhất, đó là biến đổi về vốn tri thức. Vốn tri thức của người Việt nói chung hiện nay khá cao, không chỉ so với trước đây, mà còn so với những nước hiện có thu nhập quốc dân tương đương (năm nay, theo đánh giá của UNDP, Việt Nam xếp thứ 101 về chỉ số phát triển người, cao hơn năm ngoái 7 bậc, trong khi thu nhập quốc dân theo đầu người chỉ mới đạt 372 USD; điều đó do mặt bằng dân trí, do vốn tri thức quy định).
- Thứ hai, là biến đổi phương thức sống. Mỗi thế hệ người Việt đều ít nhiều khác với thế hệ cha anh về cách thức lao động sản xuất (cách thức kiếm sống) cách thức thoả mãn nhu cầu sống, sinh hoạt, chữa bệnh, nghỉ ngơi, giải trí và có thể, cả cách đọc tiểu thuyết nữa...
- Thứ ba, là biến đổi về nhịp điệu đời sống tinh thần. Có thể nếp cảm nếp nghĩ thì không thay đổi nhiều, nhưng nhịp điệu tâm hồn thì chắc chắn đã sôi động hơn, hối hả hơn, thậm chí căng thẳng hơn... Nếu như cách đây vài thế kỷ, Côn Sơn, cách Hà Nội chưa đầy 100 km, còn là nơi ẩn đật của Nguyễn Trãi, thì nay, ngay cả nơi vùng sâu vùng xa của đất nước, người ta cũng có thể (và buộc phải) theo dõi tình hình thời sự hằng ngày. Vui, buồn, lo lắng... của người hiện đại, bởi vậy, dồn dập hơn rất nhiều.
PV:Sự thay đổi đó dĩ nhiên là có liên quan tới quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa hiện là xu thế không tránh khỏi. Vậy người Việt hiện nay sẽ chịu tác động
TS. Hồ Sĩ Qúy: Trước đây hai năm, toàn cầu hóa được đón chào tương đối nồng nhiệt. Nhưng gần đây, toàn cầu hóa bị nhìn nhận một cách hoài nghi hơn. Trên thế giới, đã có những cuộc biểu tình đổ máu phản đối toàn cầu hóa. Điều này nói lên rằng, sự lo lắng của chúng ta là có cơ sở. Đời sống tinh thần người Việt chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng của mặt trái của quá trình toàn cầu hóa.
Tuy vậy, cũng cần phải tỉnh táo để thấy toàn cầu hóa chứa đựng nhiều cơ may đối với sự phát triển của mỗi xã hội cũng như mỗi cá nhân: Toàn cầu hoá mang lại cơ hội và đặt ra thách thức cho mọi nước, cho mọi người. Nhưng, việc nắm bắt được cơ hội đó ở mức nào lại tuỳ thuộc đáng kể vào nội lực của từng quốc gia, dân tộc và nội lực của từng cá nhân. Nói một cách đơn giản, chẳng hạn, toàn cầu hóa cho phép con em của nhiều gia đình tiếp xúc được với mạng Internet. Nhưng học được cái gì ở đó, hay trở nên hư đốn vì mạng Internet - điều này lại phụ thuộc vào vốn văn hoá của từng gia đình. Con cái của những gia đình gia phong, nền nếp thì dễ gì hư trước những “kẻ bờm xờm”. Tôi muốn nói rằng, bản sắc văn hoá, bản lĩnh làm người là cái cần phải được rèn luyện, cần phải bảo tồn bằng mọi giá, để bảo vệ những nét tốt đẹp trong tâm hồn người Việt. Bản sắc văn hoá Việt Nam, bản lĩnh làm người Việt Nam chắc chắn là cái bất biến. Dĩ bất biến, ứng vạn biến, điều mà Bác Hồ đã dạy, tôi thấy có thể đem vận dụng ở đây.
Dĩ nhiên, bản sắc văn hoá Việt
PV:Người Việt có tâm hồn đa cảm, trắc ẩn. Tuy nhiên theo một số nhà tâm lý học, nhà văn thì người Việt còn hạn chế trong những suy luận mạnh mẽ của lý trí? Điều này có đúng không? Tại sao?
TS. Hồ Sĩ Qúy:Trước đây, đã có nhà nghiên cứu xếp người Việt vào kiểu người Duy tình. Duy tình với nghĩa là đối lập với Duy lý, một truyền thống tinh thần của người phương Tây và khác với Duy ý chí, một kiểu tư duy thường được coi là đặc trưng cho người Trung Hoa. Nhưng cũng có ý kiến phản bác, cho quan điểm như vậy là máy móc, áp đặt. Tôi nghĩ rằng, những ý kiến vừa nêu đều chứa đựng một ý tưởng gì đó đáng nghiên cứu. Nghĩa là, đều ít nhiều có những hạt nhân hợp lý của nó.
Sự thực thì ở người Việt, sức mạnh của lý trí, của lập luận, của lôgích... trong không ít trường hợp, cha được coi trọng. Trong đời sống tinh thần xã hội, xưa cũng như nay, sức mạnh của các quan hệ tình cảm, đặc biệt là các quan hệ huyết thống, quan hệ cộng đồng, quan hệ ân nghĩa... đôi khi, đã vượt qua cả biên giới của lý lẽ, của đạo đức và cả luật pháp nữa. Có quá nhiều bằng chứng đã được nêu trên báo chí hằng ngày về những điều đáng phê phán do quan hệ tình cảm chi phối.
Nhng tôi muốn lưu ý một khía cạnh khác. Tình trạng đó phải chăng nói lên rằng khả năng tư duy lôgích của người Việt bị hạn chế? Tôi không nghĩ như vậy. Theo tôi, khả năng tư duy lôgích, nói cách khác, khả năng duy lý của người Việt không đến nỗi thua kém ai (một số trắc nghiệm về IQ, chỉ số thông minh, đã chứng minh điều đó). Thậm chí, chúng ta còn có quyền tự hào về khả năng tư duy lôgích của người Việt. Những thành tích của trí tuệ Việt
Đây quả là vấn đề hóc búa mà nguyên nhân, có lẽ, không nằm ở khả năng của trí tuệ, mà nằm ở thang giá trị của cộng đồng. Tôi còn nhớ, GS. Trần Đình Hượu trước đây đã từng nói rất hay rằng, đối với người Việt, sự đề cao giá trị cộng đồng đôi khi đã dẫn đến chỗ tuyệt đối hoá nó, làm yếu đi, thậm chí làm cản trở giá trị cá nhân. Theo ý ông, đó là nguyên nhân khiến Người Việt có cái hay là không cuồng tín tôn giáo, nhưng cũng có cái dở là không thích say mê tranh biện triết học. Khoa học, âm nhạc, hội họa, văn chương... ở người Việt đều không được ai đó “điên rồ” phát triển đến tuyệt kỹ. Cũng bởi vậy, chưa bao giờ một ngành hoạt động tinh thần nào đó trở thành đài danh dự, biểu trưng cho cả nền văn hoá.
Đã đến lúc tình trạng ấy phải được khắc phục. Bởi vì, đời sống con người không chỉ diễn ra trong thế giới các tiện nghi, mà còn phải diễn ra trong thế giới các giá trị. Toàn cầu hóa có thể nhanh chóng làm cho thế giới các tiện nghi trở nên phong phú, nhưng không vì thế mà thế giới các giá trị nghiễm nhiên trở nên dễ chịu hơn đối với con người. Nếu chúng ta không tôn trọng hoặc vi phạm thế giới những giá trị đó, đời sống của cá nhân sẽ trở nên mất hết “hồn vía”.
PV:Xin cảm ơn Ông!
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/20147 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh Linh