Một xứ sở lạ lùng!
Năm 1944, Hilda Arnhold, một tác giả nữ người Pháp, làm việc ở Hà Nội có viết một cuốn ký sự nhan đề Tonkin - Paysages et impressions (Bắc Kỳ- phong cảnh và ấn tượng), dày tới 253 trang, trong đó có 31 trang minh họa của tác giả Mạnh Quỳnh, do Nxb Courrier ở Hải Phòng khi đó ấn hành. Sách ghi chép mọi mặt sinh hoạt, cảnh quan phong tục tập quán của vùng Bắc kỳ mà tâm điểm là Hà Nội, với đủ thứ chuyện: từ tiếng rao nước vối, tiếng guốc gỗ mà tác giả gọi là “bài ca guốc gỗ”, cho đến món phở đương nhiên không thể bỏ qua, rồi cả Tết Nguyên đán, Tết Trung thu... Những hình ảnh đậm “nét riêng Hà Nội” được viết với tâm trạng xao xuyến trong nỗi nhớ quê hương, sẽ khiến bạn khó lòng bỏ qua. TT&VH Cuối tuần trích đăng ký sự này qua bản dịch của ông Trần Hữu Nhuận.
... Mùa Thu xứ này đến thật lạ lùng. Một đêm ngủ uể oải, bức bối, mình đầy mồ hôi. Sáng dậy, ta thấy đất trời như thay đổi hẳn. Sau cơn bão nhiệt đới cuối mùa với mưa như trút, và trước đó là không khí nóng nực của mùa nắng, thì hôm nay đây, ta cảm thấy mùa khô đã điểm. Tôi mở cửa sổ nhìn ra sân, hít thở bầu không khí khô ráo, trong trẻo và mát mẻ dễ chịu như khi đang giữa ngày nóng được uống đầy cốc nước mát lạnh. Da dẻ thân hình cũng khang khác, khô khan, thô ráp, nhưng ta cảm nhận một sức sống sôi động trong cơ bắp, mạch máu, khí huyết lưu thông như nhanh hơn. Trái ngược với mùa nóng ẩm, da như căng mọng, dãn ra và cử động của ta uể oải, lười nhác. Bây giờ đây, trong con người ta, thấy như có nguồn sinh lực mới.
Mái tóc đột nhiên khô khan, rất khó chải cho phẳng mượt như mọi ngày, giày dép khô ráo cứng nhắc, chật chội khó xỏ chân. Tôi cũng thấy hơi ngần ngại khi bước vào phòng tắm, nơi mà trước đây người mẹ của tôi không thể sống nổi nếu không có cái phòng tắm này.
Xứ Bắc kỳ đã từng quen với phong thổ nóng ẩm hàng năm từ bao lâu rồi, nhưng cái ngày mùa thu quay về, vẫn làm người ta ngỡ ngàng, và tự hỏi không hiểu rồi thời tiết này sẽ ra sao, hoặc nóng bức ngột ngạt hoặc mát mẻ trong lành.
Buổi chiều Chủ nhật hôm ấy, trên chuyến tàu nhanh Hà Nội - Hải Phòng, tôi nhìn phong cảnh lướt nhanh qua khung cửa sổ toa tàu, gợi nhớ, một sắc thu với bao chi tiết riêng rẽ của cảnh sinh hoạt tạo nên bức tranh toàn cảnh gợi một nỗi u buồn.
Những ruộng lúa màu xanh sáng, hạt lúa chi chít trĩu nặng một vụ mùa tháng 10 phủ kín cánh đồng, trải dài tít tắp lan xa đến những rặng tre bao quanh làng mạc, xóm thôn. Khoảng không bao la mờ ảo một làn khói sương nhẹ mỏng. Bóng núi phía chân trời in hình lên bầu trời chiều hôm màu sẫm. Lác đác những mảng sáng như gương của các vùng, ao nước phẳng, dấu vết của trận mưa cuối mùa, những cánh cò phấp phới trên không gợi nỗi nhớ nhung. Vẫn còn sót lại những cánh sen trong đầm, lá sen đã khô cong, tàn úa, và cả những bông sen đơn độc lạc loài.
Hoàng hôn êm dịu phủ xuống ruộng đồng. Vài tia nắng chiều đỏ sẫm chiếu hắt xuống những đụn rơm vàng. mặt trời đã lặn. Những người nông phụ quây quần bên bữa cơm chiều, những chiếc mâm tre, những chiếc giường tre trong căn nhà mái rạ, đàn gà mái vẫn cục cục ngoài sân, xa xa tiếng chó sủa. Những con chó của nhà nghèo ngong ngóng chút thức ăn thừa của chủ nuôi. Và cả những đứa trẻ quê, chúng chơi đùa ngoài sân, thân mình có độc mảnh áo cũ, không mặc quần, mông đít lấm đầy bụi đất. những bờ ruộng chằng chịt, những người đàn bà nhà quê gánh những thúng lúa đầy nặng, đòn gánh oằn xuống vai. Những thằng bé dắt trâu, dắt bò. Tất cả, tất cả diễn ra một cách bình yên của mùa màng, no đủ.
Cho đến khi cảnh vật nhòa dần trong bóng tối chiều tà lan tỏa mặt đất, tôi mơ màng nhớ đến mùa thu trên đất Pháp, cũng cùng một vẻ dịu dàng, cũng u hoài một vẻ thê lương buồn nhớ và trong nỗi nhớ tha hương, tôi liên tưởng đến những cánh đồng nông thôn nước Pháp, cũng những con người lao động như ở đây, hóa ra nỗi niềm tha hương xứ người trong tôi trở nên nhẹ nhõm.