Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người
Văn hoá là "bản tính thứ hai" của loài người, nơi chứa đựng toàn bộ tinh hoa trí tuệ, phẩm chất, năng lực, ý chí, khát vọng và niềm tin của con người, nói tổng quát, đó là toàn bộ sức mạnh bản chất Người. Quá trình tạo ra thiên nhiên thứ hai thực chất cũng là quá trình loài người không ngừng tự nâng cao và hoàn thiện chính mình trong suốt chiều dài lịch sử. Văn hoá luôn hiện thân trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của xã hội, nó quy định phong cách tư duy, phương thức hành động, lối sống, nó cũng quy định hiệu quả và chất lượng hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Sức mạnh quy định đó nằm trong nhân lõi tinh tuý được kết tụ thành tiềm năng sáng tạo to lớn của văn hoá.
Từ thời cổ đại, loài người đã nhận thức được sức mạnh tiềm tàng của văn hoá. Các nhà tư tưởng thời Trung đại, Phục hưng, Khai sáng đề cao sức sống của văn hoátrong các hoạt động tinh thần, nhất lả nghệ thuật. Tuy nhiên, trong thời Cận đại, khi máy móc tham gia ngày càng nhiều vào lao động, đã có quan niệm hạ thấp vai trò của văn hoá. Thay cho, việc đề cao văn hoá trong triết học cổ điển, văn hoá “đại chúng" hiện đại chỉ coi văn hoá như là chức năng phiên bản, giữ gìn và tái sản xuất những thành tựu và ý chí của con người, thậm chí chỉ là tập hợp các dấu ấn, các mẫu hành vi, phong cách và hình thức tư duy, nó không những không có chức năng tạo ra cái mới mà còn che lấp con đường đi tới cái mới?
Từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác đã dự báo rằng, với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, phần lao động sống ngày càng giảm, phần lao động bằng máy móc tăng lên, lao động thủ công được thay thế bằng các thao tác tự động, trí tuệ con người được dùng cho việc chiếm lĩnh kỹ năng lao động, kỹ năng điều khiển máy móc. Và ngày nay, ở các nước phát triển, trong các ngành công nghiệp chủ đạo, người lao động lẽ ra phải tập trung hơn vào việc phát triển những phẩm chất và các năng lực toàn điện của bản thân để sáng tạo ra văn hoá và sử dụng văn hoá cho việc nâng cao hoạt động sống thì dường như họ chỉ tận dụng thời gian và sức lực cho việc học tập để nâng cao tay nghề?
Văn hoá hiện đại được đặc trưng bởi nhũng nội dung phong phú của các khả năng kỹ thuật và công nghệ, thậm chí cho cả kỹ thuật làm thơ, hội hoạ? Nhưng sự chiếm lĩnh kỹ thuật để đem lại hiệu quả lao động không đồng nghĩa với hoạt động sáng tạo có hiệu quả. Các hoạ sĩ hiện đại nắm rất chắc kỹ thuật hội hoạ, có thể tái tạo bất cứ bức tranh nào của Raphaen, Rembran, song đó không phải là sáng tạo. Ngay từ đầu thế kỷ XX, L.Tônxtôi đã viết: "ở thời đại chúng ta, trong tất cả các loại hình nghệ thuật, kỹ thuật đã đạt tới trình độ hoàn hảo, nhưng điều đó chưa phải là tất cả những gì mà nghệ thuật cần. Về kỹ thuật, Đôxtôépxki có thể chưa đạt tới độ hoàn hảo, nhưng tác phẩm nghệ thuật của ông đã không chỉ là mẫu mực cho nghệ thuật Nga, mà còn cho cả nghệ thuật toàn thế giới?". Tất nhiên, không nắm được kỹ thuật, người ta không thể làm được cái gì mới trong hội hoạ, trong văn chương, không thể làm rung động được người nghe bằng cảm xúc âm nhạc, không đề ra được những nguyên tắc trong sáng tạo.
Văn hoá là sản phẩm của sự phát triển khoa học, kỹ thuật, của sự ứng dụng chúng vào sản xuất và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng khi nó không được sử dụng như là tiềm năng sáng tạo thì tự nó đã mất hết ý nghĩa. Với khoa học, kỹ thuật, người ta có thể làm một việc gì đó mà không cần biết thực chất nó là gì? Người ta có thể lái xe tất mà không cần biết cơ chế vận hành của bộ máy, có thể điều khiển thành thạo một dây chuyền sản xuất nhưng không hề biết nguyên lý hoạt động của nó. Điều đó cho thấy, giáo dục - đào tạo mà không đứng trên cơ sở văn hoá nhằm tạo ra năng lực sáng tạo thì đối tượng giáo dục - đào tạo sẽ tự đánh mất mình và trở thành cái máy vô tri, vô giác. Khuynh hướng lao động tự động hoá hiện đại có nguy cơ vô cảm hoá con người - người ta chỉ biết lao động kiếm tiền mà không quan tâm tới những vấn đề khác. Đóhoàn toàn không phải là mâu thuẫn nội tại của hoạt động, mà là vấn đề xã hội: Phải tận dụng văn hoá với tư cách là nguồn năng lượng nhân loại, là tiềm năng sáng tạo trong mọi hoạt động sống của con người.
Là kho tàng tri thức, là sức sống và bản lĩnh xã hội, văn hoá đã trở thành nền tảng và nguồn lực nội sinh của mọi hoạt động sống. Sự khám phá và sáng tạo cái mới, dù là trong lĩnh vực lý thuyết hay thực tiễn, chỉ có được trên cơ sở các thành tựu văn hoá. Tổng hoà các yếu tố văn hoá chứ không chỉ các nguồn tâm - sinh lý cá nhân là cái đem lại khả năng cho sáng tạo. Gơtơ từng nói rằng, "những thành tựu vĩ đại có được không phải chỉ do sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của riêng thời đại mà cá nhân nhà sáng tạo đang sống". Còn theo Mikenxơn, để có thể xuất hiện thuyết tương đối ở Anhxtanh thì trước đó, đã diễn ra sự biến đổi công nghệ - sự xuất hiện các chất liệu, đụng cụ, cơ sở thực nghiệm khoa học, có sự cải biến toán học - lý thuyết số, hình học, sự phát triển vật lý học và triết học những quan niệm mới về thế giới, những phương pháp quan sát mới...
Rõ ràng, văn hoá không chỉ tồn tại như những hình thức, khuôn mẫu hoạt động, mà còn tiềm ẩn những giá trị phổ quát sâu thẳm bên trong. Việc chiếm lĩnh cái bên trong sâu thẳm và do đó, cái động lực, khuynh hướng, phong cách của văn hoá là công việc đầy ý nghĩa. Bởi đó là công việc biến những giá trị văn hoá phổ biến thành phẩm chất bên trong đầy năng động và tích cực của mỗi cá nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi người ta cảm nhận được ý nghĩa sâu xa,hiểu được cái toàn vẹn hữu cơ và quy luật vận động đặc thù của nó.
Sự khác nhau giữa văn hoá bên ngoài sống động và văn hoá bên trong trầm tích những nguồn năng lượng - cái bệ phóng của hoạt động sáng tạo, được thể hiện ở sự khác nhau giữa lao động sống và lao động văn hoá. Lao động sống là lĩnh vực hoạt động có tính thực dụng hàng ngày, kết quả của nó tồn tại dưới hình thức "hoá thạch" các tài năng của lao động cụ thể. Lao động văn hoá vượt lên trên lao động sống, nó thể hiện giá trị phổ quát, là tổng các "hoá thạch" của lao động cụ thể. Những sản phẩm của lao động sống chỉ là những thời điểm, những yếu tố của sáng tạo văn hoá và phụ thuộc vào hoạt động sáng tạo văn hoá. Gônđentrích cho rằng, đặc trưng của hoạt động vật chất là ở chỗ, nó được chương trình hoá, điều chỉnh hoá bởi cơ chế văn hoá hiện hữu, còn cái sáng tạo lại được phát sinh từ các phản ứng bên trên văn hoá vật chất. Sự nội tâm hoá sức mạnh văn hoá vào bên trong hoạt động của cá nhân là sự nâng cao chất xã hội của cá nhân đó. Sức mạnh của năng lực sáng tạo vì thế cũng tác động đến hình thức sáng tạo vật chất, làm ra thế giới văn hoá. Văn hoá chỉ trở thành nền tảng của sáng tạo khi nó không bị quy về sản phẩm, về kết quả cố định, mà là một tổng năng lượng toàn vẹn luôn vận động cùng với cá nhân, hướng tới việc tích tụ năng lượng và tạo dựng sức mạnh con người.
Vì vậy tiền đề quan trọng của hoạt động sáng tạo là khả năng thức tỉnh các động lực và cơ chế vận hành bên trong của tổng hoà năng lượng văn hoá. Đó là lúc chủ thể phát hiện ra các "nút thần kinh" văn hoá, xử lý một cách tinh tế các mâu thuẫn, những bước ngoặt và chỗ đứt đoạn, nắm bắt được những bí ẩn trong sự tương tác giữa các yếu tố của đối tượng. Bản thân các khuynh hướng văn hoá trở thành
Mỗi nền văn hoá đều chứa đựng một tổng thể các phong cách và hình thức của tất cả các sản phẩm văn hoá vật chất và tinh thần: kỹ nghệ và kiến trúc, các quan niệm vật lý và các trường phái hội hoạ, các tác phẩm âm nhạc và những công thức toán học...Nhà sáng tạo với tư cách chủ thể văn hoá nhìn thấy hình thức và phong cách bên trong văn hoá như là quy luật sắp xếp toàn bộ những hiện tượng phong phú, đa hình, đa dạng của đời sống hiện thực, của các lĩnh vực khác nhau trong một thời đại và vấn dụng chúng vào việc biến đổi cách nhìn cũng như quan niệm của mình về thế giới và về cả phương thức hoạt động. Sự xuất hiện đường sắt ở thế kỷ XIX đã làm biến đổi nhịp điệu và cấu trúc thơ ca Nga. Sự khám phá ra thế giới vi mô đầu thế kỷ XX đã phá vỡ nhiều quan niệm và lối sống truyền thống. Tư tưởng triết học về khả năng nhận thức vô tận của con người đã đặt nền móng cho lâu đài hội hoạ và văn chương hiện đại, thậm chí cho cả sự phát triển nhiều trường phái tôn giáo.
Những hình thức của văn hoá được hình thành như là "bộ mã" xã hội, chúng quy định đặc trưng, bản chất xã hội và thời đại, nó không mất đi khi thời đại của nó kết thúc. Thâu tóm được "bộ mã" đặc trưng, bản chất xã hội và thời đại bên trong văn hoá, cá nhân sẽ khẳng định được mình như là chủ thể sáng tạo độc đáo và lúc đó, sáng tạo không phải là sự tìm tòi tuỳ tiện mà là có mục đích. Sứ mệnh chân chính của nhà sáng tạo không phải là phá vỡ, bác bỏ hình thức văn hoá, mà là dựa vào nó,
Trong một nền văn hoá phát triển, tức nền văn hoá có những hình thức chuẩn xác và hoàn thiện thì thậm chí, một nghệ sĩ bình thường cũng có thể tạo ra những tác phẩm có chất lượng. Trường phái hội hoạ lãng mạn Hà Lan và Đức thế kỷ XIX hay thành tựu thơ ca hiện đại Nga được sinh ra trên một trình độ cao không chỉ ở các nghệ sĩ lớn mà cả ở nhiều người trung bình. Nguyên nhân của tình hình đó là do giá trị lớn lao của nghệ thuật truyền thống chiếm vị trí đặc biệt trong các nghệ sĩ. Và ngược lại, ở đâu mà hình thức văn hoá thiếu lành mạnh, chẳng hạn như phong cách giả cổ điển trong kiến trúc hoặc hội họa pop-art hiện đại nguỵ tạo ra sự phù hợp giữa xã hội và tự nhiên không thể là nghệ thuật chân chính. Bởi hình thức văn hoá là cái không thể bịa ra được, một hình thức do nhà sáng tạo bịa ra sẽ hiện nguyên hình cái giả.
Hình thức của mỗi nền văn hoá được quy định bởi các quan hệ đô/ với tồn tại, đối với thế giới sự vật cũng như với không, thời gian. Điều này cũng liên quan tới quan niệm về vị trí của con người trong thế giới, quan niệm về hình thức và chuẩn mực tư duy, những phẩm chất và hành vi thiết yếu đối với một nền văn hoá, liên quan tới sự xác định các mối quan hệ giữa con người với con người và với các quan niệm sống của nhà hoạt động, chúng cũng trở thành những nguyên nhân bên trong của khát vọng tìm tòi, làm cơ sở cho những dự đoán và phát kiến trong sáng tạo.
Mỗi nền văn hoá đều có những hình mẫu nền tảng xác định đặc điểm của sự nhìn nhận, sự suy tư và phương thức thâm nhập vào hiện tượng cũng như bản chất sự vật. Trong mỗi thời đại, các hình mẫu đó lại có những đặc điểm khác nhau. Do quen tiếp nhận những hình mẫu và phong cách chiếm hữu thế giới bằng con mắt của văn hoá hiện đại, với bộ máy tư duy phát triển, với phương thức nhận thức khoa học tinh tế, với sự phân tích tâm lý chính xác, chúng ta thấy dường như những hình thức văn hoá trước đó là thiếu hoàn thiện. Nhưng trên thực tế, khi chưa có phương thức thâm nhập thế giới với bộ máy tư duy hoàn thiện, văn hoá Trung Hoa cổ đại hay văn hoá châu âu trung cổ đã đạt tới những đỉnh cao trong các lĩnh vực toán học, thơ ca và những hệ thống triết học sâu sắc. Đương nhiên, chúng ta khó có thể bác bỏ một sự thật là, sự hiểu biết thế giới vật chất trong vật lý học Châu Âu thế kỷ XX sâu sắc hơn vật lý học cổ đại Hy Lạp. Sự khám phá các phản ứng hạt nhân trong vật lý học cổ đại Hy Lạp là điều không thể có được. Nhưng điều đó chỉ nói lên rằng, khả năng của khoa học - kỹ thuật trong thời đó là có hạn. Ý chí sáng tạo và nỗ lực trí tuệ phi thường của con người trong khát vọng khám phá thế giới không thể khắc phục được hạn chế của khoa học - kỹ thuật ở các nền văn hoá đó. Lui đơ Brôi khi nêu lên đặc tính phát triển của tư tưởng khoa học trước thế kỷ XVIII đã viết: "...Khi không hiểu khái niệm vector, không hiểu các phương pháp đại số học và lượng giác thì người ta không thể có khả năng phân tích những vật thể vô cùng nhỏ bé, những yếu tố như những phương tiện, nền móng cho sự quan sát và thực nghiệm để tìm ra những chân lý sơ đẳng, để cuối cùng người ta cải tạo quan niệm của mình về thế giới và toàn bộ nền sản xuất”.
Chúng ta không thể trách cứ các nhà khoa học, các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại rằng họ không biết phân tích vi vật thể và do đó, họ không làmđược những gì lớn hơn điều họ cần làm.Bởi trình độ khoa học và do đó, thế giới quan của họ được xây dựng trên trình độ và đặc điểm văn hoá thời đó. Sẽ là vô nghĩa nếu nói rằng, lý thuyết của Arixtốt về sự rơi tự do của vật thể là đúng đắn, còn lý thuyết của ông về sự bay lên của vật nhẹ là sai lầm. Những tri thức về thế giới mả người Hy Lạp tổng kết được đã phản ánh trực tiếp hình thức văn hoá và trình độ cảm nhận thế giới một cách độc đáo của văn hoá cổ đại Hy Lạp. "Đó là một thế giới luôn thay đổi,A.C.Lôxép viết: có thể sờ mó được, nó tồn tại như một cơ thể sống, nó ảnh hưởng tới bất cứ một sự tồn tại nào khác về sau. Đó không phải gì khác ngoài vũ trụ vật chất, cảm giác và vũ trụ sống, là vật thể luân hồi vĩnh cửu, nó nảy sinh từ cái hỗn mang rồi chuyển thành cái hài hòa, cái độ, nhịp điệu, trở thành đại lượng phát triển lên, hoà lặng rồi lạiđi tới tan vở, phá đi cái kết cấu hài hoà ban đầu để rồi lại đi đến thế hỗn mang".
Với cảm quan vũ trụ như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã vẽ nên bức tranh thế giới mà ở đó, lửa là sự sống chân chính, sự hình thành nên thế giới đó cũng là sự lắng đọng của lừa như là yếu tố đầu tiên thống nhất, như cái toàn vẹn vũ trụ, ở đó không hề có ranh giới giữa các chu kỳ tự nhiên và con người, giữa thế giới vĩ mô và vi mô, ở đó tất cả do một nhịp điệu thống nhất điều chỉnh, một sự hài hoà tồn tại thông qua các mâu thuẫn vĩnh hằng. Phép biện chứng đã được sinh ra trên nguyên tắc đó như một phương pháp tư duy mới. Và điều đó dẫn Đêmôcrít tới tư tưởng về tính đa trị của các cá thể trong thế giới, tới quan niệm về tính hỗn mang, tính ngẫu nhiên của tất cả những gì tự sinh ra và tự diệt vong, và cuối cùng là thuyết nguyên tử và chân không.
Mỗi nền văn hoá cũng hình thành nên tri thức về quan hệ giữa các sự vật trong thế giới. Nhờ sự quan sát trực tiếp các mối quan hệ trong thế giới sự vật, nên lối tư duy trong văn hoá Hy Lạp cổ đại là hết sức mềm dẻo, nó có sự hỗ trợ của trực giác, của tư duy hình học và của sự khám phá cơ chế bên trong, do đó trong hội họa, nguyên tắc phối cảnh đường thẳng chiếm ưu thế. Không phải ngẫu nhiên mà Averinxép nói rằng, thuật xem tướng dựa vào hình dạng và sụ thể hiện nét mặt để biết tính cách và số phận con người trở thành khoa học phổ biến thời cổ đại và trung đại, giống như vật lý học Niutơn trong thời đại ánh sáng. Sự nhìn nhận sự vật qua những hình ảnh độc đáo, qua những lực đấu tranh với nhau, thậm chí qua các nguyên tử đó là đặc điểm của hình thức văn hoá, thể hiện khả năng sáng tạo phi thường của con người thời đại đó.
Tri thức
Thời hiện đại đem lại một thế giới tri thức khoa học với nhiều nét khác biệt. Vật chất ở đây không còn "mỉm cười" với con người bằng ánh mắt lấp lánh của nó nữa, không còn cái nhìn thuần tuý cảm tính đối với thế giới sự vật, cũng không còn những hình ảnh trực quan đầy kinh ngạc về thế giới nhiều màu sắc. M.Born viết: " Thực chất của khoa học nằm trong sự thiết lập các mối quan hệ khách quan giữa những kết quả do kinh nghiệm của hai hay nhiều loại cảm giác khác nhau tạo ra và đặc biệt là mối tương quan của sự cân bằng. Những mối tương quan đó có thể được các nhà thực nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau khái quát và kiểm tra. Chỉ sử dụng những khẳng định có ý nghĩa, chúng ta cũng có thể có được bức tranh khách quan về thế giới, dù đó là bức tranh không màu sắc. Trong bức tranh đó luôn chứa đựng đặc tính của một phương pháp khoa học".
Với phương pháp khoa học đó, khi bỏ đi màu sắc trực quan, chúng ta sẽ có được những thành tựu khoa học vĩ đại, nhất là những khám phá to lớn trong khoa học tự nhiên và tiến tới đỉnh khải hoàn của tinh thần nhân loại chân chính. Những khám phá vĩ đại ngày càng nhiều và chúng tạo ra những bước nhảy khổng lồ trong sự phát triển kỹ thuật, công nghệ, tiến tới sự chiếm lĩnh cái mới, mở ra những chân trời tri thức mới. Những hình thức và phương pháp nhận thức, thuộc tính của một hình thức văn hoá nhất định, chín muồi và được kết tinh lại, những truyền thống trở thành sức mạnh tiềm tàng trong hoạt động sáng tạo và do vậy, trong cùng một lúc nó có thể thức tỉnh nhiều nhà sáng tạo cùng hình thành một tư tưởng lớn.
Các lĩnh vực văn hoá thâm nhập vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau và chính sự chiếm lĩnh các kết quả tiềm ẩn của chúng đã đem lại hiệu quả lớn trong hoạt động sáng tạo. Tất cả những tư tưởng độc đáo, những giả thuyết được hình thành trong một hình thức văn hoá nhất định sẽ không bao giờ mất hết dấu vết. Trong tâm thức nhà khoa học, nhà nghệ thuật, nhiều hình thức văn hoá bị lắng xuống thì giờ đây, lại bừng lên và thôi thúc tính tích cực sáng tạo. Tư tưởng của Hêgen về "chân lý vô tận" hầu như đã bị lãng quên hàng trăm năm lại bừng lên trong giả thuyết "không gian cong" của Anhxtanh, tư tưởng "nhiều tầng lớp, lớp này nằm trong lớp kia" trong "thuyết đơn tử" của Lépnít ngày nay lại trở thành vấn đề tranh luận của các nhà vật lý thiên văn nhằm làm rõ thêm cấu trúc của các siêu thiên hà.
Từ thiên nhiên thứ hai, chúng ta sống, hoạt động, rồi lại nhìn thấy thế giới xung quanh qua khúc xạ của nó qua ngôn ngữ, hình thức và chuẩn mực tư duy, qua hoạt động thực tiễn và các phương thức, thủ pháp nhận thức khoa học. Những tầng lớp tri thức, tình cảm tạo thành tiềm năng trí tuệ, phương pháp tư duy, tiềm năng sáng tạo ăn sâu vào máu thịt của từng con người và chúng được đem lại dường như tự nhiên từ nhiều thế kỷ.
Chiếm lĩnh văn hoá là con đường và phương pháp tối ưu trong chiến lược xây dựng và phát triển con người nói
Vấn đề chiếm lĩnh văn hoá với tư cách là vấn đề giáo dục đào tạo nhầm trang bị năng lực sáng tạo gắn bó chặt chẽ với vấn đề phát triển cá nhân toàn năng.
Chiếm lĩnh văn hoá nhân loại, chuyển văn hoá nhân loại, kho tiềm năng sáng tạo loài người thành kho tiềm năng sáng tạo bên trong của mỗi cá nhân, đó là công việc hàng ngày và suất cả mỗi cuộc đời.
Nội dung khác
Tìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường