Tôi thương Việt Nam

07:16 CH @ Thứ Tư - 13 Tháng Bảy, 2011
Xem bài trước:

Không thương sao được vì đó là nơi tổ tiên, ông bà và chính tôi nữa đã sinh ra. Là hành tinh duy nhất tôi ghé thăm khi may mắn kiếp này được làm người. Nơi đầu tiên tôi mở mắt nhìn ánh mặt trời và nhận ra cây lá, cỏ hoa của thế giới quanh mình…

Kể lại một chút chuyện xưa theo sử sách với ngậm ngùi, tiếc nuối (*). Chuyện kể rằng, vào thời Hùng Vương, nước Văn Lang đã có phong tục, tập quán và ngôn ngữ riêng của người Việt, khác với Trung Hoa. Người Việt thời đó đã chịu ảnh hưởng sâu xa Phật giáo Ấn Độ, ngôn ngữ và văn minh nước Việt thời xưa đã chịu ảnh hưởng của Đại Tạng Kinh Phật giáo. Vào thời nhà Triệu (207–111 TCN), Việt Nam đã có chùa rồi. Nhiều lắm nhé.

Lại có chuyện nghe như cổ tích mà là sự thật. Chử Đổng Tử lấy Tiên Dung, con gái vua Hùng. Hai người lập phố xá buôn bán và nơi ấy trở thành chợ có tên là Hà Lõa. Thương nhân nước ngoài thường ghé tới buôn bán. Sự tích quả dưa hấu của An Tiêm thời đó để biết đã có buôn bán bằng đường biển (dân gian bảo đó là người đầu tiên đi “xuất khẩu lao động” và “đánh quả” gửi về…Hihi…). Một hôm, có thương nhân rủ Đồng Tử hùn vốn ra nước ngoài “đánh quả”. Đồng Tử lên thuyền ra đi. Khi thuyền ghé lên bờ để lấy thêm nước và lương thực ở chân núi Quỳnh Viên, Đồng Tử lên núi dạo chơi, ngắm cảnh thì gặp một am tranh trên núi. Đó là nơi ở của sư Phật Quang (theo thiền sư Lê Mạnh Thát thì có thể đây là nhà sư người Ấn Độ do vua Ashoka cử đi truyền bá Phật pháp vào TKIII-TCN). Đồng Tử được nhà sư thuyết giảng Phật pháp, sướng quá quyết định ở lại núi để tu học. Năm sau, thuyền buôn đến đón, khi xuống núi, sư Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một nón lá, bảo rằng các việc “linh thông” có cả trong hai vật này. Có giả thuyết nói rằng Chử Đồng Tử tu tiên chứ không phải tu Phật. Thật ra, cây gậy và nón lá là hai pháp khí của các tăng sĩ Phật giáo tu theo Mật tông từ thời xưa cho đến gần đây. Cây gậy là cây Tích trượng hay pháp khí của các thiền sư tu theo Mật tông. Như vậy, Phật giáo đã được du nhập vào Việt nam từ thời Hùng Vương, cùng thời vua A-dục. Các vị tăng sĩ Ấn Độ tới viếng Việt Nam bằng đường biển theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các tăng sĩ tới thì các thương gia ngươi Ấn này đã mang đến VN những sinh hoạt Phật giáo. Sau thời gian hình thành trong vài thế kỷ, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phát triển ở thế kỷ đầu của kỷ nguyên dương lịch và đạt đỉnh cao với trung tâm Phật giáo Luy Lâu (TKII – III). Thời nhà Tùy, vua Văn Đế là người mộ đạo, sai người sang Giao Châu để giáo hóa cho dân chúng và xây chùa để con người biết đến đạo Bồ Đề. Nhưng pháp sư Ðàm Thiên tâu rằng, Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc…Khi Phật Pháp mới tới Giang Ðông còn chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu đã có 20 ngôi chùa, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 cuốn kinh rồi...Phục lăn phục lóc…

Cơ mà Khổng Tử (ra đời muộn hơn Đức Phật 72 năm) và các học trò của cụ lại chống đối, chê bai những gì không thuộc về nước lớn. Khổng nói: “Các giống di địch ở miền Ðông và miền Bắc dù thời thái bình có vua cũng không bì được với nước ta trong thời loạn không vua”. Mạnh Tử nói: “Ta từng nghe dùng học thuyết nước lớn để giáo hóa di địch, chưa từng nghe lấy học thuyết di địch đẻ giáo hóa nước lớn bao giờ”. Mâu Tử, một cư sĩ TQ sang Giao Châu đã lâu và theo học các nhà sư Ấn Độ tại đây, quyết phá tan mặc cảm tự tôn cho rằng TQ là trung tâm của trời đất, xung quanh chỉ là biên địa, mọi rợ, di dịch. Mâu Tử bảo có những bậc vĩ nhân xuất thân từ các miền di địch và nói với người đả phá Phật giáo rằng: “Không chắc là đất Hán nằm giữa. Tôi kính trọng đạo Phật nên học Phật và tôi không bỏ Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng. Vàng ngọc không gây tỳ vết cho nhau, bích ngọc và mã não để chung không sao cả. Khi ông cho người khác lầm lạc, có nghĩa chính ông đã lầm lạc không?”. Mâu Tử còn nói: “Ấn Ðộ mới thật nằm giữa trời đất và địa vị trung hòa, vì vậy Phật đã ra đời nơi đó”. Nguyên tắc pháp môn của Mâu Tử giản dị như sau: “Xe và thuyền không đi cùng một lối, nhưng đều đưa người tới chốn”. Thời ấy là vào khoảng năm đầu công nguyên. Cũng là thời kì VN chịu tai họa 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng ngay lúc đó thì các trường phái thiền đã phát triển rất mạnh như Tỳ Ni Đa Lưu Chi hầu như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Ðộ. Ðây là một thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo, vừa thể hiện được đời sống thực tế, đơn giản của quần chúng nghèo khổ.

Các thiền sư (nhà Lý nương vào họ để củng cố triều chính và học đạo) đã cố gắng xây dựng một nền văn hóa Việt độc lập với phương Bắc. Về phương diện địa lý nhà Lý đã dời đô về nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. Về học thuật, họ có công đào tạo một lớp trí thức không cố chấp, biết dung hợp các ý thức dị biệt của Nho, Lão, Phật. Về phương diện văn hóa, họ góp phần dựng nên một triều đại thuần từ, lấy Từ bi làm căn bản cho chính trị. Về văn hóa, họ đã cho ra đời nhiều sáng tác dù phần lớn những tác phẩm này có chủ đề Phật giáo. Về mỹ thuật, những công trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo cũng là những đóng góp mĩ thụât quan trọng nhất trong thời đại. Về học thuật, các thiền sư đã mở trường dạy học, không những cho tăng sĩ mà còn cho cư sĩ. Thiền sư Vạn Hạnh đã đào tạo nên Lý Công Uẩn. Sau này những nhà nho thiếu căn bản Phật học trở nên giáo điều, cố chấp và hẹp hòi. Thái độ đó đã gây chia rẽ và tạo nên loạn lạc. Hoàng Xuân Hãn đã gọi “Ðời Lý có thể gọi là đời thuần nhất trong lịch sử nước ta. Ðó chính là ảnh hưởng của đạo Phật”. Ðạo đức, từ bi không làm cho dân nghèo nước yếu, trái lại, những yếu tố này đã tạo nên phú cường. Bằng chứng là những chiến thắng Chiêm Thành và quân Tống; trong nước thì không có bạo động; triều đình thì gần gũi với dân…

Nếu kể đến sự độc lập, tự chủ phải kể đến đời Trần. Từ Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông đều là những người rất giỏi về Phật pháp. Vua Nhân Tông tu theo phái thiền ở núi Yên Tử và được nhận là người truyền thừa của phái này thế hệ thứ sáu. Từ đó trở đi, Yên Tử trở thành nổi tiếng, là lực lượng trung gian có thế lực giữa triều đình và nhân gian. Một nhà vua từng đánh bại cuộc xâm lăng quân Nguyên đem lại hòa bình, thịnh trị cho dân tộc, vậy mà dám bỏ ngai vàng để xuất gia. Cả nước nhìn về ngọn Yên Tử như hướng về ngọn hải đăng. Đạo Phật đã giúp liên kết toàn dân để xây dựng và bảo vệ quốc gia. Cuộc đời xuất gia của Phật hoàng Trần Nhân Tông (Trúc Lâm) vô cùng tích cực. Ngài thường vân du hoằng đạo khắp nơi và luôn được dân chúng ái mộ, khâm phục nên lời khuyên của Ngài có tác dụng rất lớn. Giáo lý Thập Thiện là cơ bản để xây dựng đạo đức xã hội. Phật hoàng đã góp phần xây dựng một xã hội lấy nền tảng luân lý là đạo Phật. Trúc Lâm Yên tử là Phật giáo nhập thế, liên hệ mất thiết tới chính trị, phong hóa xã hội. Thời đại vua Trần Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo hưng thịnh đến cực độ. Thế nhưng tinh thần từ bi và khoan dung của đạo Phật không hề tiêu cực và xa lánh. Hội nghị Diên Hồng do vua Trần Nhân Tông triệu tập đã tập hợp dân chúng với quyết tâm “ĐÁNH”…Tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thần tự cường của con dân nước Việt khi Phật giáo thống nhất chỉ có ở đời Trần. Đó là nền Phật giáo độc lập, là uy tín của quốc gia Ðại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam tự chủ. Tuy có tiếp nhận ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Ðộ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình, phục vụ, duy trì và bồi đắp cá tính Việt. Về phương diện văn hóa, Phật giáo đời Trần đã có đóng góp lớn lao mà ưu điểm lớn nhất là tinh thần khoan dung và tự do. Nhà Trần đãi kẻ sĩ không hề hẹp hòi, hòa vị mà có lễ phép. Cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt lên thói phàm tục. Chính các đặc tính khoan dung và mềm dẻo của văn hóa đời Trần mà vua quan cùng dân chúng đã đồng thanh tương ứng chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Văn học đời Trần rực rỡ và phản chiếu tinh thần từ ái, hòa đồng, thanh thoát, không tỏ ra khiếp nhược, yếm thế mà tóat lên sự tự lực, tự cường và tiến thủ, thấm nhuần tính cách dung hợp và khai phóng của đạo Phật. Văn học Nôm cũng được hình thành trong đời Trần. Nền học vấn đời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử. Chính sách tôn giáo của nhà Trần là tự do và bình đẳng, giới sĩ phu dù xuất thân từ truyền thống tôn giáo nào cũng được triều đình đãi ngộ. Tinh thần Phật giáo giúp các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ…Chính vì nhận thấy nguy cơ đó, vào TK15, nhà Minh đã quyết tâm đập tan những cơ cấu văn hóa xây dựng gần 150 năm của Phật giáo đời Trần. Họ thu lượm các sách vở cổ kim của VN đóng thùng chở về nước. Sau đó bọn họ còn cử người sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Ngược lại, họ đem sách Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo của họ sang để thay thế cho những sách đã bị thu hồi. Chính sách tiêu diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài tinh thần của triều Trần vô cùng phong phú. Cuối đời Trần, đặc biệt tới đời Lê, mọi sự đã ngoặt sang hướng khác…Một hướng đi rất đau lòng…

Tôi vừa thương vừa giận vừa tiếc vì…

Cuối TK14, một số Nho gia muốn thay đổi để bắt chước theo thể chế sinh hoạt văn hóa của Trung Hoa. Các Nho thần Lê Bá Quát và Phạm Sư Mạnh yêu cầu vua Minh Tông thay đổi thể chế sinh hoạt văn hóa, vua trả lời: “Nước ta đã có phép tắc nhất định, vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau. Nếu theo lời của các ngươi, chỉ cốt cho thành tựu mưu chước thì chỉ sinh loạn ra thôi”. Vua Nghệ Tông cũng nói: “Triều đình dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều là chủ nước mình, không cần bắc chước nhau”. Lớp nhà Nho bắt đầu muốn “Tống hóa” nền văn hóa của Ðại Việt. Thời này, Nho gia bắt đầu công kích Phật giáo. Theo họ, đạo Phật là sự mê tín dị đoan, có hại cho đất nước. Chỉ có một tôn giáo có thể giữ nước và dựng nước, đó là Nho giáo. Các sử thần gọi Nho giáo là đạo Trung dung (Ngô Sĩ Liên), là đạo Nhất trung (Ngô Thì Sĩ). Trạng nguyên Lương Thế Vinh không được thờ trong Văn Miếu do thượng tôn Phật giáo là sự phản ảnh trung thực thái độ cực đoan của Nho gia lúc bấy giờ. Ngô Thì Sĩ viết: “Ðạo chỉ có một, ngoài đạo tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ, không còn gì được gọi là đạo nữa.” Nhiều Nho sĩ giữ thái độ hẹp hòi về tôn giáo và ý thức hệ. Phong thái thấp kém, suy đồi của Nho sĩ cùng với tình trạng rối ren của đất nước đã làm mất đi sự tôn trọng, tự tin của giới Nho sĩ. Suy đồi khi họ đánh mất vai trò lãnh đạo trí thức, văn hóa và chính trị. Trong suốt hơn 200 năm, từ khi nhà Trần bắt đầu suy yếu, đạo Phật không ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, chính trị nữa. Giới trí thức hướng về đạo Nho như cứu cánh cứu nước và dựng nước. Các Nho sĩ đáng lý phải ý thức được ý định thâm độc của nhà Minh, nhưng trong gần hai thế kỷ, một phần vì thiếu ý thức về văn hóa dân tộc, một phần vì kỳ thị Phật giáo, không có nho gia nào chịu khó tìm tòi gây dựng lại vốn cũ.

Sau Lê, Nguyễn là sự xuất hiện của người Pháp. Sự học Tây phương bắt đầu thâm nhập vào VN. Người trẻ bỏ Nho học theo tây học. Dần dần tây học cường thịnh thì các nhà Nho về vườn. Đến lúc bị áp đáo, mất uy quyền, các nho sĩ lại bắt đầu lui tới chùa đàm đạo và uống trà thân mật với tăng sĩ, làm như sự xung đột chưa bao giờ xảy ra giữa Nho giáo và Phật giáo cả. Chả giống gì với vẻ cao đạo khi Nho giáo cực thịnh…Chán!!!

Vậy là mấy lần VN mất đi cơ hội tuyệt vời để có thể xây dựng một nền tảng văn hóa, tâm linh thoát khỏi vùng ảnh hưởng xấu của Nho học…Sao mà không thương chứ…

Tôi thương lắm vì…

Mảnh đất tôi gọi Tổ quốc ngay từ ngày đầu lập nước đã không được lựa chọn láng giềng cho mình, tựa như không thể lựa chọn cha mẹ vậy. Một láng giềng không hơn về văn hóa, văn minh thuở ấy mà chỉ lấy sự hung bạo để bắt người hàng xóm phải gọi họ là anh, chịu lệ thuộc vào họ. Đương nhiên không phải vì yêu thương mà chỉ để lợi dụng và đè đầu cưỡi cổ đứa em khi cần. Bị cương tỏa, áp đặt bởi bạo lực cả ngàn năm thì đương nhiên sự ảnh hưởng làm sao tránh được? Tư tưởng Khổng giáo âm u, tù hãm, giả dối, mê mờ ám ảnh, chi phối cho đến lúc này vẫn chưa thoát ra được. Sự ghét bỏ và chỉ trích Phật giáo của các Nho thần chưa phải là nguyên nhân làm cho mọi giá trị cùng Phật giáo suy vong. Chính sự chạy theo một nền văn hóa “nước lạ” mà không thấy được giá trị của nền văn hóa truyền thống dân tộc mới là nguyên nhân chính của sự suy đồi. Nền văn hóa “nước lạ” này được xây dựng trên thái độ giáo điều, quan điểm chật hẹp về chân lý: đó là sở học Tống Nho tự cho mình là độc tôn, còn tất cả cái nhìn khác về nhân sinh và về vũ trụ đều là sai lầm. Tính cách cực đoan, độc đoán, độc tôn, tự mãn được “Nho học” đóng dấu và xuất bản cho đến tận lúc này…Có thương dân tộc mình không hả trời?

Tôi thương nhiều vì…

Ngay từ buổi đầu sơ khai bị áp bức và áp đặt ấy, dân tộc VN đã luôn phản kháng lại sự áp bức thô bạo và không thối chí. Cũng từ đó, đời sống người Việt luôn ở trạng thái bị giằng co, uất ức, căm hận, nhưng vẫn phải lựa để gã hàng xóm không kiếm cớ hay “bỗng dưng” sai người tốc sang nhà mình giết, đánh người, cướp của và dương dương tự đắc của kẻ “có lớn mà không có tử tế”. Tâm thế của người Việt chẳng mấy khi yên bình, thoải mái là thế…Chiến tranh liên miên suốt mấy ngàn năm. Vì đâu nên nỗi mà đời sống của Tổ quốc tôi tồn tại và phát triển qua các cuộc chiến tranh giữ nước? Nếu không có gã hàng xóm xấu tính luôn rình rập thì đâu đến nỗi chiến tranh trở thành cuộc sống bình thường qua các thời đại tại xứ sở này? Và, cuộc sống hòa bình bỗng trở thành bất thường? Có phải vì thế đã qua gần 40 năm cuộc chiến (không biết có phải là cuối cùng không) mà dân tộc tôi vẫn chưa quen với lối sống thời bình? Người ta vẫn sợ “diễn biến hòa bình” đến độ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù tiềm ẩn ngay chính đồng bào mình?



…Tôi thương và tự hào vì...

Nếu chút gì nền văn hóa đặc thù của Việt Nam còn đến bây giờ là do công gìn giữ của chính những người dân bình thường, nghèo khổ, có khi còn mù chữ. Họ mang niềm tin hồn nhiên, chân thật khi tiếp nhận đạo Phật, dung hòa với tín ngưỡng bản địa ngây thơ, trong sáng. Trong khi phần lớn quan chức, giới trí thức tinh hoa ít nhiều bị ảnh hưởng của Nho học và có đặc quyền, đặc lợi đều trở nên lọc lõi (biết cách tạo chỗ đứng và giữ chỗ đứng), cơ hội, thực dụng (học nhằm đỗ đạt làm quan); bảo thủ, độc đoán (do tự tôn và tự mãn)…đã làm văn hóa, xã hội, chính trị ngả dần theo sức hút (ép buộc) của phương Bắc. Nhưng đến giờ những người có công gìn giữ ấy vẫn chưa có quyền tự chủ quyết định vận mệnh đất nước mình…

Rồi nhớ đến việc hô hào về giữ gìn bản sắc dân tộc…Nhiều người phát biểu, nói này nọ đủ thứ…Tốn bao giấy mực, tiền của hội thảo, lập dự án…Bản sắc dân tộc vẫn cứ “lặn không sủi tăm”…Sao không học từ cha ông hàng nghìn năm trước?

Chả cần phải thêm cái gì sất. Cứ làm nhạt dần và đi đến tuyệt giao với Nho học cực đoan. Bỏ hết những nhãn mác ý thức hệ dán chồng chất lên bao năm nay. Quay lại bồi đắp đạo Phật thành nền tảng tâm thức dân tộc, dung hợp với tín ngưỡng dân gian, bỏ mê tín, dị đoan (chủ yếu du nhập từ TQ). Hãy tin rằng đạo Phật không cần phải thay đổi để thích nghi với khoa học tiên tiến và đời sống hiện đại mà vẫn giữ được cốt lõi của mình. Cứ thế bản sắc dân tộc từ từ lộ diện, chói sáng, tự chủ…Đã có minh chứng từ tiền bối, có phải thời nay phát minh ra đâu? Nhớ nhé, chủ yếu là từ bỏ, không cần phải thêm vào…Sống là trút bỏ dần dần mà…Hihi…

Mình nói tiếp nhá… Nhưng sẽ dài đấy, xin lỗi bạn bè thích đọc ngắn… Dững hơn 5 trang cơ…

Haizzz… Nói mãi về Nho giáo chán quá rồi nhưng không thể không nhắc đến. Vì nó ám xã hội VN kinh quá. Đến giờ vẫn hắt bóng trùm lên xã hội và len vào nếp nghĩ của dân mình. Chán không để đâu cho hết…Tư tưởng VN cuối TK19, đầu TK20 vẫn là mấy ông Nho cầm trịch, mà lại Tống Nho mới kinh chứ.

Nhà Nguyễn duy trì Nho giáo để bảo vệ chế độ chuyên chế của mình. Dớ dẩn và đau khổ thế. Nhưng khi mấy ông tây bắt đầu lần mò đi thuyền đến bờ biển VN để buôn bán cũng là lúc Nho giáo đụng độ với những gì thuộc về phương tây. Rồi họa mất nước vào tay Pháp đến gần…Tưng ấy nguy cơ mới thấy Nho giáo bấy lâu nay tạo dựng một thể chế hết sức phản động, không đủ sức tập hợp và lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước trở nên phú cường đủ sức đánh giặc. Trước nguy cơ ấy, mấy ông vua nhà Nguyễn càng cố kết nền quân chủ Nho giáo với hy vọng giữ được nước. Họ vận dụng quân-thần; trung nghĩa để tập hợp lực lượng. Người ta coi vua đồng nghĩa với nước; yêu nước là trung với vua… Khư khư giữ Nho giáo, cuối cùng nhà Nguyễn cũng chẳng giữ được nước. Pháp nhảy vào, triều đình qui phục… Nhìn lại để thấy 1000 năm đô hộ giặc tàu nguy hại đến mức nào…

Còn đây… Nhìn lại 100 năm đô hộ giặc tây để xem nhé…

Trong bối cảnh mất nước thì xã hội VN lúc đó lại được hưởng những tiến bộ mà người Pháp đưa vào như dùng chữ quốc ngữ, mở nhà xuất bản, cho ra đời nhiều tờ báo; mở trường dạy học (trường Mỹ thuật Đông dương, trường Y…lừng lẫy có từ thời ấy); dịch sách nước ngoài ra chữ quốc ngữ…Trên đất nước mình, nhưng nơi nghỉ mát và danh lam thắng cảnh tuỵêt đẹp đều do người Pháp tìm và khai quật: Sapa; Tam đảo; Nha Trang; Bạch mã… Úi giời là nhiều chả kể nữa. Các loại đường sắt cũng là người Pháp xây dựng và vẫn dùng cho đến ngày nay. Cầu Long Biên đến giờ vẫn là biểu tượng về Hà Nội cũng do kĩ sư người Pháp xây dựng, mà tận cái ông kĩ sư xây dựng tháp Epphen hẳn hoi nhá. Nhà hát Lớn đẹp nhất trong các nhà hát cho đến lúc này…Mấy ông bạn blog chả thích đọc dài nên thôi không kể nữa…

Quên, nốt chuyện này…Hà Nội có cái bịêt thự nào đẹp nhất, hoành tráng nhất chính là xây từ thời Pháp. Mình mà được một cái bịêt thự ấy thì chả cần làm gì mà sống như bà hoàng…Hihi…Phủ Chủ tịch chính là Phủ toàn quyền ngày xưa. Đẹp mê hồn. Bây giờ đố các Tổng công ty xây dựng nhà nước làm được? Bật mí để khoe tí nhá…Một lần lúc đã lớn tồng ngồng (biết để ý chuyện trai gái), mình đèo mẹ bằng xe đạp. Lúc ngang qua Phủ Chủ tịch, bà nói, đất của các cụ nhà mình đấy con ạ, rồi im lặng…Chuyện lai lịch tông tộc bà giấu kín vì sợ qui “thành phần”. Đó chính là quê ngoại mình. Ngày bà ngoại mình về làm dâu hàng ngày vẫn đi nhặt na rụng trong vườn Phủ ấy về cho lợn… Cụ mình còn chơi sang thuê thợ đánh cá hồ Tây về thả vào cái ao (trong Phủ ý mà) để có cá ăn dần. Trong gia phả nhà ngoại kể lại, có thợ đánh cá hồ Tây bị cá to húc vào bụng mà chết…Mình bán tín bán nghi…Rồi lại nghĩ đểu, không biết có thợ nào bị cá đớp bậy mất…không? Hihi… Sau này Pháp lấy khu đất ấy xây Phủ toàn quyền nên các cụ phải chuyển cả dinh cơ vào làng hoa Ngọc Hà. Cũng từ đó các cụ sống bằng nghề trồng hoa… Mẹ mình được đi học, mới chỉ là bậc thấp thấp gì đó (chưa phải tú tài) mà nói tiếng Pháp làu làu, đọc tiểu thuyết bằng tiếng Pháp nắc nỏm khen hay và mơ mộng về cái xứ sở Ánh sáng ấy. Ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Pháp nên thường kể cho mình nghe những gì bà cảm nhận về nền văn hóa hào hoa này…Mình nhận thấy tính cách người Hà Nội mà người ta hay kể, hay bàn đến hình như ảnh hưởng quá lớn phong cách tinh tế, hào hoa của người Pháp? Tiếp nối tính nhân văn, tự trọng, khiêm cung, tự do, khoáng đạt của đạo Phật thời Lý, Trần, âm ỉ trong suốt thời gian độc trị của Nho giáo, để rồi bắt nhịp, hòa hợp với văn minh phương Tây, làm nên tính cách người Thăng Long xưa chăng? Có thời gian mẹ mình tham gia mặt trận bình dân (từ Pháp ảnh hưởng sang VN), đi dạy học, hít thở làn gió tự do dân chủ của phương Tây…như bất kì cô gái Hà nội tân thời nào lúc bấy giờ. Chính nhờ những ảnh hưởng này mà đã có giới trí thức tuyệt vời mà đến giờ đã bị “tuyệt chủng” gần hết (đã có sự đứt đoạn từ bấy đến giờ). Chính họ đã làm ra phong trào Thơ mới tuyệt hay, một nền văn học, âm nhạc Tiền chiến mà đến giờ chưa có trào lưu văn học nghệ thuật nào sánh kịp…Nhiều danh sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ lừng lẫy lập danh còn để chúng ta cúi đầu khâm phục nhiều thế kỉ nữa. Những danh phẩm của họ sẽ còn nuôi dưỡng tâm hồn Việt trong nhiều năm dài dài…Thế mới biết cái được mà thực dân Pháp mang lại cho xã hội VN lúc đó lớn đến mức nào. Tại sao kẻ đi xâm chiếm lại làm được điều mà đến giờ chúng ta vẫn chưa làm được cho dân tộc mình???

Quay lại sự bức xúc của mấy nhà nho tiên tiến đầu thế kỉ 20…Chính được tiếp xúc, giao lưu với văn minh phương Tây và thấy sự thối nát, bất tài của sự cai trị Nho giáo nên mới có phong trào Khải mông, Duy tân do các cụ khởi xướng, tiêu biểu nhất là hai cụ Phan: Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Mình thì rất thích đường lối duy tân của cụ Phan Châu Trinh. Mấy nhà nho duy tân đã nhắc đến những thứ mà từ xưa chưa bao giờ xuất hiện trong xã hội VN: dân trí, dân khí, dân sinh, dân quyền, dân chủ, nhân quyền… Bỗng đâu người dân được quyết định vận mệnh của mình, không bị lệ thuộc, áp bức vì sự lạm quyền của nhà nước và pháp luật (quan hệ vua tôi, quan niệm trung nghĩa của Nho học đã đè bẹp ý chí phản kháng của người dân). Nhưng người dân nào lúc bấy giờ hiểu được điều đó ngoài mấy ông đồ Nho cách tân?

Giáo sư Trần Đình Hượu đã phát hiện: chủ thể cho cuộc vận động dân chủ của các nhà Nho duy tân là con người "quốc dân-đồng bào" chứ không phải là con người "cá nhân–công dân" như trong cách mạng dân chủ phương Tây. Con người “quốc dân-đồng bào” ra đời không những là sản phẩm của cuộc đấu tranh dân tộc giành độc lập mà còn là sản phẩm của tư tưởng Nho giáo, nếp nghĩ theo nho giáo. Họ lấy gia đình mà hình dung thế giới. Lấy cuộc sống làng họ mà hình dung xã hội và nhà nước. Sống theo tình, nghĩa, từ nghĩa đồng tông, đồng hương mà suy đến nghĩa đồng bào. Lấy ân tình với tổ tiên đất nước, tình nghĩa với đồng bào thay thế nghĩa quân thần. Với cách suy nghĩ đó thì tổ chức xã hội cũ có mở rộng, có thêm bớt nhưng không có cách mạng. Con người vẫn là thành viên của cộng đồng chứ không phải cá nhân…Hơn thế nữa, đơn vị cho xã hội dân chủ những người trong quan hệ cha con, anh em, vợ chồng, tức là hệ tiểu nông chứ không phải cá nhân trong quan hệ tư sản. Kinh quá cơ. Cái dấu Nho giáo đóng vào dân tộc mình có mất đi cũng để lại vết sẹo sâu vào da thịt…

Đọc cuộc đời Phan Châu Trinh thấy nhiều chuyện thú vị phết…Do đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp nên cụ bị bắt, rồi giao cho Nam triều kết án, bị đày ra Côn lôn, Côn đảo. Tuy bị kết án nhưng cụ lại được chính phủ Pháp trọng đãi và kính nể. Chính viên Thống đốc Nam kì ra tận Côn đảo tìm hiểu lập trường đấu tranh của cụ. Sau đó cụ được Hội nhân quyền Pháp can thịêp ráo riết với chính phủ Pháp nên được thả…Chả hiểu nước Pháp nghĩ gì mà lại cho cụ mang theo con trai sang Pháp cùng với viên toàn quyền Klubolowsky? Hay thế chứ…Bọn tư bản đến lúc giãy chết mà vẫn cư xử quân tử ăn đứt quân tử Tàu…Ở Pháp cụ lại tiếp tục đấu tranh về tội tham nhũng của chính quyền Pháp ở Đông dương… Lại bị tù… Rồi lại được hội nọ hội kia đấu tranh nên lại được thả…Bên bị bắt và bên thả đều có lí lẽ của riêng mình nhưng đều rất đàng hoàng. Có một chi tiết mà mình cứ phân vân, tự hỏi là nếu điều đó xảy ra thì nước Việt ngày nay sẽ như thế nào? Lịêu cụ Phan Chu Trinh có đủ sức đẩy lưng dân tộc Vịêt cất bước đi trên con đường mà theo cụ là tươi sáng cho đến tận bây giờ không? Chuyện là thế này…Cụ Phan chủ trương bắt tay với người Pháp, đấu tranh thông qua nghị trường. “Nhà cháu” không chơi bạo động, đánh nhau, đổ máu mà muốn canh tân đất nước theo từng bước đã vạch ra:

- Khai dân trí, bỏ lối học tầm chương trích cú (nho học ấy mà), mở trường dạy quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.

- Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, thoát khỏi nọc độc chuyên chế.

- Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa.

Còn về “Đạo đức và luận lý Đông Tây” của cụ rất rõ ràng: xã hội VN thời đó không có cả luân lý gia đình lẫn luân lý quốc gia (cốt lõi là ý thức dân tộc). Tiêu vong sạch sau cả ngàn năm Nho giáo. Cụ chống Nam triều rất quyết liệt và vạch trần sự thối tha trong xã hội Việt Nam từ triều đình đến tận thôn xã, từ vua quan, cường hào, cho đến thân sĩ, dân thường. Cụ bảo, “các bậc đại thần ăn đầm, nằm đìa ở chốn triều đình”, “các quan tỉnh huyện chỉ biết “bắt phu, thu thuế cùng đi đón đi tiễn quý quan”, “đút lót người trên nhiễu kẻ dưới”. Và ở thôn xóm lúc nhúc đầy hạng người đi lại “tráp giày bệ vệ, rần rần ngựa xe”…Ngoài những bọn nịnh hót, luồn cúi, những bọn ỷ thần cậy thế, có tiền thì ăn chơi “suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma quỷ, lừa gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn, như bò, giẫm cổ, đè đầu cũng không dám ho he một tiếng! Cả mấy mươi triệu người như đàn ruồi, lũ kiến, không còn chút nhân cách nào”. Cụ càng không tin gì ở đám hủ nho “ươn hèn, lười biếng, ù ù cạc cạc”.
Thế thì làm gì có khái niệm luân lý xã hội? “Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến. So với quốc gia luân lý thì người mình dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bạn bè không thể thay cho xã hội luân lý được…”. Luân lý xã hội không thể là tình cảm bạn bè mà phải coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, từng quốc gia mà còn đến cả thế giới. Cụ chỉ ra luân lý xã hội thực chất chưa có ở nước ta “rằng, vì, thì, là, mà”: mọi người "phải ai tai nấy", "ai chết mặc ai", không biết đoàn kết. Người nước mình không biết đến đoàn thể, không trọng công ích. Bọn học trò ham quyền tước, vinh hoa, sinh ra giả dối, nịnh hót. Giai cấp thống trị mặc dân cực khổ, nô lệ, ra sức "vơ vét", "rút tỉa". Ngày trước bọn chúng là "cử nhân", "tiến sĩ" (thời nho học), ngày nay là “kí lục, thông ngôn”. Quan lại chính là một "lũ ăn cướp có giấy phép"…Hihi, cụ nói hay phết…Vừa văn vẻ, vừa lý luận…

Theo quan niệm dân chủ công khai của cụ Phan là phải bãi bỏ chế độ quân chủ với một thái độ phê phán nghiêm khắc. Phải truyền bá chủ nghĩa xã hội, gây dựng đoàn thể vì sự nghiệp giành tự do, độc lập dân tộc. Xây dựng đoàn thể cũng chính là gây dựng tinh thần đoàn kết, phát huy tinh thần bình đẳng của con người trong xã hội. Không biết trong thâm tâm khi triển khai khái niệm chủ nghĩa xã hội của cụ có khác gì hậu thế sau này không? Chắc là khác…Mình tin thế…

Còn khái niệm “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa” của cụ thì thôi rồi tuyệt vời: “So sánh hai cái chủ nghĩa quân trị và và chủ nghĩa dân trị thì chủ nghĩa dân trị hay hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của một triều đình mà trị nước, thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay là phải đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người ta giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nổi phải đè đầu khốn nạn làm tôi một nhà một họ nào. Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường”…Hihi, sao đúng thế…Chắc cụ có Thiên nhãn soi qua cả thế kỉ nhìn ra đám con cháu mình sau này…

Nhưng có chi tiết mà mình cứ tiếc mãi mà không biết tiếc như vậy có đúng không nữa? Là vì, khi vua Khải Định mất, cụ Phan đánh địên tín cho Khâm sứ Trung kỳ Pasquier nói rằng cụ sẽ ra Huế để lo cải tổ triều chính và lập dân đảng. Hỡi ôi, cụ chưa kịp thực hiện ước mơ của mình thì mất vì trọng bệnh, khi ấy mới 55 tuổi (cái tuổi có thể trụ được 2, có thể là 3 “nhiệm kì” bây giờ…Hehee). Nếu mà, nếu mà…Một cơ hội nữa lại lướt qua dân tộc mình…

Đến đầu thế kỉ 20, xã hội VN vẫn là xã hội thời trung cổ lạc hậu vãi…Mình tưởng tượng có một khoảng trống đen tối vô cùng lớn nuốt gần hết dân tộc mình sau “đêm trường trung cổ”. Một khoảng trống về quyền lực, nhận thức, dân trí… Không ai đủ sức bắc cây cầu để dân tộc mình đi qua mà tất cả rơi tõm xuống đó. Chỉ ít người men theo ánh sáng le lói của văn minh phương Tây sang được bờ bên kia và cực kì cô đơn, bất lực, như hai cụ Phan chẳng hạn? Cụ cũng định bắc cầu cho mọi người leo lên nhưng lực bất tòng tâm nên sự nghịêp bất thành…Sau đó cả đám người ngoi ngóp chui lên khỏi hố sâu và gặp ngay lý thuyết xã hội với những mơ ước chả có gì sai nhưng tu nhiều kiếp cũng không thành hiện thực với một xã hội dân trí cực thấp như vậy… Choáng váng, ngây ngất, bị thôi miên, lên đồng và cứ cắm đầu cắm cổ làm…Làm mà chả hiểu gì sất. Mình cũng chả hiểu gì sất cho đến bây giờ…Thương thật là thương…

Cụ Phan Châu Trinh gợi mình nhớ đến Thánh Mahatman Gandhi với đường lối đấu tranh bất bạo động và canh tân đất nước, khai mở dân trí. Ngày trước học lịch sử, mình nhớ là đường lối đấu tranh của cụ Phan bị phê là cải lương “chuông vàng”… Thế Gandhi cũng cải lương sao? Cải lương mà đòi được độc lập cho Ấn Độ đấy. Mình thích cải lương như vậy lắm. Có một câu của Gandhi mà mình cực thích, cực thấm thía khi ông nói với các đồng chí của ông lúc họ nôn nóng muốn dùng vũ khí để giành độc lập: “Các bạn nhầm rồi, mục đích của chúng ta không chỉ là đòi độc lập cho Ấn Độ. Cái cao cả lâu dài hơn là phải rèn luyện cho người dân Ấn Độ xứng đáng sống trong nền độc lập đó. Mà cuộc đấu tranh lâu dài này của chúng ta chính là môi trường để rèn luyện cho người dân đủ phẩm giá sống trong nền độc lập của mình”. Đó là tầm nhìn xa của một tư cách lãnh tụ vĩ đại với tâm hồn nhân văn cao cả vô biên, hiếm hoi. Giống như câu nói của một nhà văn Nga gì đó mình chưa kịp nhớ ra, đại ý là, chúng ta biết cách chết cho Tổ quốc nhưng rất ít người biết sống vì Tổ quốc… Phẩm giá con người, suy cho cùng cũng là một năng lực, và năng lực ấy cần được nuôi dưỡng và bồi đắp hàng ngày, hàng giờ trong những môi trường văn hóa, nhân văn, dân chủ, tự do…

Haizzz… Bao giờ cho đến ngày ấy?… Cái ngày nước Việt ngẩng đầu nhìn thế giới văn minh với con mắt không còn tủi hổ, mặc cảm? Không còn ngửa tay vay mượn từng đồng để làm ăn mà cứ mỗi lần vay được nhiều hơn năm cũ lại sung sướng la lớn? Không còn thói tật xấu mà đi đến đâu cũng bị người ta nghi ngờ, chê trách, xa lánh?... Chuyện dài kì đó để bàn vào dịp khác… Mệt và nản quá rồi… Không lẽ bắt chước tiền bối là lên non ở ẩn? Nhưng sợ không có internet để viết blog và hàn huyên cùng mấy anh trai nên thôi… Đành tìm cách khác vậy…

Haizz...


(*) Tài liệu từ “VN sử học Phật giáo” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và "Sơ lược lịch sử Phật giáo VN" của cử nhân sử học Nguyễn Hiền Đức.
Nguồn:Blog
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Tôi sợ nhất là cái "văn hoá" phi văn hoá, phản văn hoá

    29/04/2018Phan Thắng (thực hiện)Hệ giá trị bị chao đảo mạnh. Hệ chuẩn mực đánh giá thay đổi mạnh. Có sự phân hóa của người viết, người đọc, của văn chương đặc tuyển, văn chương đại chúng. Có sự trỗi dậy của văn chương mạng, internet, sự thu hẹp của văn chương sách giấy. Tất cả đang được sắp xếp lại để định hình...
  • Người Việt và triết lý sống “phúc đức tại Mẫu”

    11/08/2019Nguyễn Thị Minh TháiChữ hiếu của người Việt đã thành quan niệm phổ thông trong xã hội, và kết dính keo sơn với hai chữ phúc-đức mà ông bà cha mẹ luôn muốn trao truyền cho con cháu.Chữ hiếu của người Việt đã thành quan niệm phổ thông trong xã hội, và kết dính keo sơn với hai chữ phúc-đức mà ông bà cha mẹ luôn muốn trao truyền cho con cháu...
  • Thế kỷ của những chuyển dịch văn hóa

    03/04/2018Nguyễn HòaĐối với Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ của các biến động chính trị - xã hội. Để giành lại độc lập, dân tộc đã phải hao tổn quá nhiều xương máu và nước mắt. Những biến thiên ngoắt ngoéo của lịch sử đã đẩy văn hóa dân tộc vào tình thế chỉ trong một thế kỷ, đã phải chịu ảnh hưởng của nhiều nguồn văn hóa rất khác nhau, trong các tình thế khác nhau...
  • Sự có mặt của những “ngày xưa”!

    14/12/2016Vương Trí NhànCái cảm tưởng ấy đến với tôi sớm nhất là hồi chống Mỹ, khi gần như cả Hà Nội bỏ đô thị để về nông thôn. Chả ai kêu ca gì, thậm chí nhiều người còn tự hào là được trở về với cái gì trong lành hồn nhiên của đời sống ông cha. Nhưng khách quan mà nói, đó là lúc cái nhịp sống chậm chạp tùy tiện của xã hội tiểu nông từ từ quay lại...
  • Nghị luận văn hóa với ta

    02/11/2015Nhà văn Thiếu SơnTrước đây, ở Huế có một nhóm trí thức mang danh là "Nhóm chịu trách nhiệm" (Les responsables), ý hẳn họ cho rằng họ có trách nhiệm trong cuộc tiến hóa của xã hội và họ phải hành động làm sao cho xứng đáng với cái thiên chức của mình...
  • Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc (*)

    16/09/2015GS. Trần Văn GiàuLịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ hiện đại chép tên tuổi Nguyễn An Ninh là một trong số những người đầu tiên, nếu không phải chính anh là người đầu tiên, đã tuyên truyền cổ động có bề sâu, có bề rộng, có hệ thống những tư tưởng lớn của Đại Cách mạng Pháp 1789-1792. Anh cũng là người đầu tiên cho đăng trên tờ Chuông Rè của anh toàn văn “Tuyên ngôn Cộng sản” của Mác Ăng-ghen...
  • Khủng hoảng lựa chọn văn hóa

    19/06/2015Nguyễn HòaVới tư cách một khái niệm, khủng hoảng lựa chọn văn hóa dùng chỉ một tình trạng của văn hóa, khi xã hội và con người thiếu (không có) các tiêu chí, chuẩn mực văn hóa có khả năng định tính, định hướng quá trình nhận thức văn hóa dẫn đến sự nhiễu loạn hành vi văn hóa của xã hội và con người…
  • Đông Kinh Nghĩa thục và những điều kiện Hiện đại hoá

    21/05/2015Nhà nghiên cứu giáo dục Phạm ToànTự do này, độc lập này mà đồng bào ta vừa giành lại, chúng ta phải gìn giữ trong lĩnh vực tinh thần. Các dân tộc trường tồn chính là nhờ có thành tựu nghệ thuật và khoa học. Chúng ta cần dõng dạc và hào hùng tự khẳng định mình trong tư cách một dân tộc. Đó là lời dặn dò của cụ Nguyễn Hữu Cầu – suy ra cũng là những lời dặn dò Đông Kinh Nghĩa thục...
  • Bởi người lớn “quên” vai trò nêu gương

    10/09/2014Nguyễn HòaNếu trong tầng lớp được coi là “có chữ” của xã hội lại có nhiều người “ít chữ”, nếu việc học hành thi cử chỉ để có bằng cấp cho đủ tiêu chuẩn tiến thân, thì khoa học bị hạ giá sẽ là điều khó tránh khỏi. Sự lên ngôi của thói coi thường tri thức như đang tiềm ẩn trong đó nguy cơ, không chỉ đối với khả năng lựa chọn văn hóa, mà còn là nguy cơ đối với chính sự tồn vong của văn hóa...
  • Bá quyền văn hóa kiểu Trung Quốc

    05/07/2011Đoan TrangNhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
  • Thương và yêu

    14/02/2011Nguyễn Tiến VănCó hai từ căn bản trong quan niệm luyến ái của trai gái Việt Nam: thương và yêu. Hai từ này chuyển tải hai thái độ làm người và quan hệ có khác biệt khá nền tảng: thương là quan hệ truyền thống; yêu là quan hệ hiện đại. Mốc phân luồng có thể lấy là khoảng đầu thế kỉ 20 với ranh giới là 19/5 khi chế độ khoa cử bị bãi bỏ dưới thời Pháp đô hộ và phong trào lãng mạn dưới ảnh hưởng của phương Tây với chủ nghĩa cá nhân thịnh hành từ 1925 đến 1945...
  • Quốc Hoa và Giá trị cốt lõi của Quốc Gia

    26/01/2011Nguyễn Tất ThịnhĐịnh nghĩa Quốc Hoa: là Loài Hoa mang ý nghĩa biểu tượng về Giá trị cốt lõi của một Quốc Gia. Ý nghĩa đó vừa hòa quyện những ngụ ý gửi gắm của Nhân dân về đặc điểm văn hóa phổ biến nhất của Đất Nước từ Quá khứ tới Tương lai, nhưng vốn đã từng ngự trị trong Tâm thức của mọi người về giá trị điển hình của Hoa đó để khi nói đến là liên tưởng mặc định ý niệm về Gen của Quốc Gia...
  • Một cách tiếp cận về lịch sử văn hoá Việt Nam

    14/01/2011Ngô Đức ThịnhThực tại và lịch sử bao giờ cũng có một khoảng cách. Đó là khoảng cách giữa cái hiện thực và cái phản ánh hiện thực ấy. Các nhà sử học luôn luôn có tham vọng rút ngắn cái khoảng cách ấy để làm sao các tác phẩm sử học phản ánh tương đối sát hợp với hiện thực và quy luật của sự phát triển của xã hội mỗi nước, mỗi dân tộc...
  • Lãnh đạo và quan điểm ‘đặt con người vào trung tâm của mọi quá trình’

    12/01/2011Nguyễn Tất ThịnhQuan điểm ‘Đặt con người vào trung tâm của mọi quá trình’ ( để thuận tiện cho bài viết tôi gọi là ‘Thuyết X’ ) không biết từ ai, từ bao giờ đã có vẻ như đương nhiên ngự trị trong quản trị - dường như là một định đề không cần bàn cãi. Nhưng thực ra nếu không làm sáng tỏ mà chấp nhận một cách chung chung, đại trà sẽ nảy sinh hoặc gây ra rất nhiều hệ quả bất như ý – đặc biệt, có thể trở thành rào cản trong chính sách Nhân sự...
  • Hai bước ngoặt trong lịch sử văn hóa Việt

    11/01/2011Hoàng Thư NgânTrong lịch sử hình thành văn hóa Việt nam, nổi rõ hai bước ngoặt lớn, có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến văn hóa Việt, và do đó, đến đời sống của dân tộc Việt nam, trong đó có lối sống và văn học nghệ thuật, kéo dài hàng thế kỷ cho đến tận thời đại ngày nay. Đó chính là sự xuất hiện của chữ Nôm và chữ Quốc ngữ...
  • Đợt sóng thứ ba

    18/12/2010Trịnh Thị Kim NgọcĐợt sóng văn minh thứ ba với nền kinh tế tri thức cũng kéo theo những biến động không nhỏ đối với cuộc sống con người và tạo nên một kiểu văn hoá tổ chức và hoạt động xã hội hoàn toàn khác, không giống như các design được lặp đi lặp lại, trước đây. Biểu hiện rõ nét nhất là ảnh hưởng của "ngôi nhà điện tử" đến hoạt động cộng đồng, tâm lý cá thể, phương thức quản lý lao động, đến môi trường và nhiều vấn đề kinh tế khác.
  • xem toàn bộ