Thư ngỏ gửi đạo diễn Lê Hoàng- Đồng tiền, đạo lý và nỗi cô đơn
Thực ra, sau mấy bài diễn văn của các vị quản lý phát hành và chiếu bóng đổ lỗi cho nghệ sĩ, rằng trước khi có Gái nhảycác rạp không biết chiếu cái gì, rằng doanh nhân xuất hiện đã làm thay đổi bộ mặt điện ảnh nước nhà... tôi đã hình thành ý kiến phản pháo lại họ và cái cơ chế mập mờ, nước đôi mà họ đang ẩn nấp. Nhưng người ta lại gọi anh lên trước. Thế là những ý tưởng độc lập của tôi phải trình diễn trên cái sân khấu còn ướt đầm nước mắt của anh. Tôi đã đưa ra hàng loạt vấn đề cốt lõi của điện ảnh Việt Nam trong cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa thị trường và định hướng, đề xuất các giải pháp cổ phần hoá rạp chiếu bóng, giao rạp cho các hãng và đổi mới cơ chế tài trợ cho sản xuất phim. Nhưng tất thảy những ý tưởng có tính chiến lược đó chẳng ai ghi nhận. Anh bỗng nhiên trở nên cái khiên quá cỡ che chắn cho cái cơ chế phát hành phim và chiếu bóng hiện hành, khiến cho bao nhiêu nỗ lực của tôi phanh phui quyền lực của họ và sự tháu cáy danh nghiã trong đời sống điện ảnh đều trở thành nỗ lực giáng vào anh!
Chúng ta bỗng bị trói vào nhau như hai kẻ bị cột vào hai đầu dây của cơ chế để kéo co bên bờ vực thẳm mà bất cứ kẻ nào buông tay ra chịu thua cũng làm cho kẻ kia mất đà ngã xuống vực sâu. Hãy thử tưởng tượng xem, từ nay, nếu anh đi vào một đám tang nào đó và nhỏ lệ xót thương người quá cố, người ta cũng loan tin là anh khổ quá, vừa bị tôi "phản pháo" (!). Cái thói đời xích chân tôi vào với chân anh, thực chất nó là cái trò gì vậy? Thói quen man rợ của chủ nô xích chân nô lệ hay thực ra thì thân phận nghệ sĩ chúng ta trước đồng tiền chỉ là một thứ tù dắt dây truyền kiếp mà thôi?
Nhà Phật đã dạy rằng khi một mũi tên bay đến cắm vào vai ta, thì việc trước hết là phải rút mũi tên đó ra chứ không phải loay hoay trả lời câu hỏi mũi tên làm bằng gì, do ai bắn tới. Việc trước hết là phải chặt tung cái xích vô hình trói chặt chân tôi vào chân anh, để cả hai thoát khỏi cái trò chơi bập bênh mà khi kẻ này được nâng lên thì kẻ kia bị dìm xuống và ngược lại. Chúng ta không phải là đối trọng của nhau. Trước khi có Gái nhảychúng ta đã là bạn, sau khi có Gái nhảychúng ta vẫn là bạn, là đồng nghiệp cùng chí hướng. Anh sáng tác bằng niềm tin nghệ thuật của anh, hướng đến khán giả của anh. Tôi cũng vậy, tôi kiên trì với niềm tin nghệ thuật của tôi và thủy chung với khán giả của mình. Hà cớ gì niềm tin nghệ thuật của tôi lại phải mặc quần thủng đít để chơi bập bênh với niềm tin nghệ thuật của anh? Hà cớ gì hơn hai triệu khán giả của tôi sau khi đứng chồn chân dầm mưa trên bãi xem phim Ký ức Ðiện Biên lại phải vác đòn càn đánh nhau với năm trăm ngàn khán giả uống Coca, ngồi máy lạnh xemGái nhảyvà Lọ lem hè phố ?
Anh đã nói rằng bây giờ mới bàn về chuyện phim cần khán giả, thì khác nào bạn chuyện cá cần nước. Sau câu đó anh bật khóc. Tôi nghĩ anh đau khổ chân thành, dù niềm đau đó bật lên từ một ví von khập khiễng. Vấn đề thực ra là, lâu nay cá khao khát được bơi trong nước, nhưng người ta đã ngăn cá với nước, bắt cá này “đắp chiếu” trong chậu nhỏ, thả cá kia tung tăng giữa biển khơi. Nhiều bộ phim của chúng ta từng phải chịu cảnh cá chậu chim lồng, chiếu vài buổi cho xong nghĩa vụ với điện ảnh nước nhà rồi dẹp. Nói một cách công bằng, Phát hành phim quân đội và các Công ty chiếu bóng ở nhiều địa phương đã có công lặn lội đưa phim Việt Nam đến hàng triệu khán khả nông, công binh ở nông thôn miền núi và hải đảo. Thu nhập chẳng bao nhiêu, nhưng họ đã làm tốt công tác sự nghiệp văn hoá mà xã hội giao phó. Nhưng ở thành phố rạp chiếu bóng hầu hết trở thành một hệ thống kinh doanh giải trí thuần tuý, chỉ tập trung chiếu các phim ăn khách của nước ngoài chủ yếu phục vụ đối tượng thanh niên. Người ta cho nhập hàng năm hơn 50 phim Tây, Tàu, Mỹ, Nhật, Hàn, chiếm hơn 500% so với phim nội địa sản xuất. Một con số kỷ lục thế giới. Phim ngoại mua rẻ hơn, quảng cáo tốt hơn đã chiếm hết buồng chiếu tốt và thời gian tốt. Phim nội hầu như không đến được với khán giả cần xem ở các thành phố. Không có chỗ chiếu các phim phục vụ người có tuổi, người có nhu cầu xem phim nghệ thuật, người muốn trở thành khán giả của phim Việt Nam. Ðến nỗi, họ hàng tôi và bạn bè tôi muốn mua vé xem phim của tôi cũng chẳng biết xem ở đâu. Nước cần cá, nước tìm đến cá mà không tìm ra một cái chậu con con để nước ùa vào với cá.
Trong nhiều năm, cả tôi và anh cùng những đồng nghiệp khác đã cắn răng chịu sự sỉ nhục vô hình để kiên trì sáng tác theo những thôi thúc thẩm mỹ, theo những định hướng văn hoá trong tận đáy lòng. Nhưng đến một ngày kia, sau khi Gái nhảy của anh ra đời, những ông chủ rạp Nhà nước, những nhà quản lý định hướng đầy mình, những nhà báo mang tem nhãn quốc doanh đã nhất trí tấn công vào giới nghệ sĩ điện ảnh chúng ta, rằng chúng ta là những kẻ không biết làm phim, khư khư bám bầu sữa Nhà nước, không chịu trách nhiệm với sản phẩm của mình. Ðồng tiền bán vé chiếu phim ngoại quốc trước kia chỉ là phương tiện để thực thi sứ mệnh văn hoá bảo hộ mậu dịch cho phim nội, nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật của toàn dân, thì nay bỗng hùng hồn lên giọng răn dạy về đạo lý về định hướng, thậm chí nó dám tự xưng là đạo lý và định hướng. Rằng, đạo lý cuả người nghệ sĩ là phải có trách nhiệm với đồng tiền người khác bỏ ra, rằng từ nay phải sáng tác sao cho khán giả phải ùn ùn đến rạp. Thực chất của khẩu hiệu “hướng đến khán giả” đang réo rắt véo von trong các hội thảo, diễn đàn, công luận, dự án nọ kia chỉ là “hướng đến doanh thu chiếu bóng trong thành phố”. Nhưng cái ý nghĩa của 13 tỷ doanh thu của Gái nhảy là cái gì vậy? Nhà nước chẳng được xu thuế nào từ số tiền này cả. Một tỷ tiền vốn nhà nước bỏ ra tài trợ cho Gái nhảycũng không được thu hồi. Con số huyền thoại ấy đã được cưa đôi để một nửa trả về cho Hãng phim và một nửa đưa cho rạp chiếu để trang trải các khoản tiền lương thưởng và nâng cấp rạp. Nghĩa là, làm những phim thương mại chỉ là để các nghệ sĩ và các rạp chiếu ở thành phố có thu nhập cao hơn. Kêu gọi thay đổi cách làm phim chỉ là cách gây áp lực đòi nghệ sĩ phải đánh mất mình để phục vụ doanh thu của các rạp chiếu bóng trong thành phố. Tất cả vì doanh thu, có sao đâu, miễn họ đừng nhân danh những chiến sĩ văn hoá dùng quyền lực và tài sản quốc gia để làm văn hoá. Tôi và anh cùng những ai đó nữa có thể thay đối tư duy sáng tác để biến mình thành vật tế thần cho vài trăm ngàn khán giả trẻ trong thành phố. Nhưng chúng ta đâu có thể dễ dàng lên giọng đạo lý để bắt các đồng nghiệp khác phải giã từ hàng triệu khán giả khác trên đời. Khẩu hiệu “Kéo khán giả đến rạp” quả là cao cả lắm. Nhưng chúng ta còn nhiều khẩu hiệu khác không kém thiêng liêng, chẳng hạn: “Vì sự đa dạng về văn hoá”, “Vì sự bình đẳng giữa nông thôn và thành phố”, “Vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ðồng tiền, vốn là con đĩ của nhân loại như K. Max từng gọi đã nhảy lên vị trí giáo chủ đòi nghệ sĩ điện ảnh phải khác đi để phụng sự cho tham vọng khôn cùng của nó. Và nó đã tạo ra sức ép từ những mặt nạ văn hoá giả trá làm cả anh và tôi đau đớn, rơi nước mắt. Chúng ta đã bắt đầu hướng cặp mắt rớm lệ của mình kiếm tìm những ông chủ tư nhân sòng phẳng hơn và thành thật hơn. Nếu phải làm những phim câu khách, kiếm tiền thì thà làm cho họ. Vì họ trả ta nhiều tiền hơn, họ tiếp thị tốt hơn, họ cũng có cơ hội giành vinh quang trong các cuộc đua tranh nghệ thuật chẳng khác gì các hãng phim Nhà nước. Nhưng chúng ta có thể làm phim “Người tình chủ tịch nước” hay “Người tình Tổng Bí thư” để cạnh tranh với "Người tình Tổng thống" của Hàn Quốc không? Chúng ta có được thoải mái làm những gì mình muốn miễn là không phạm luật, như các hãng phim nước ngoài không? Hay chúng ta vẫn đau đáu cõng trên lưng cái gánh nặng định hướng để rồi lại phải khóc vì thua trong cuộc cạnh tranh không công bằng với phim ngoại quốc và bị công luận đồng thanh sỉ nhục, cô lập vì không làm ra một món hàng đắt khách như ngoại quốc?
Trong khi các rạp chiếu bóng ở thành phố cứ bám mãi vào bầu sữa ngoại nhân mà chẳng ai chê trách, thì người ta lại chê trách chúng ta là bám vào bầu sữa của Nhà nước. Nếu không có tài trợ của Nhà nước thì lấy đâu ra Gái nhảy để những kẻ lý tài dựa vào đó mẳng mỏ chúng ta? Thực tình mà nói, cái số tiền tài trợ còm cõi hàng năm cho điện ảnh chỉ bằng giá một Km đường quốc lộ, đâu phải là sự trả giá sòng phẳng cho những yêu cầu quảng cáo, tuyên truyền và phát triển văn hoá của một quốc gia. Các công ty tư bản còn trả giá nhiều lần hơn thế cho sự quảng bá một sản phẩm hạng hai của họ. Ðể xứng danh với một chế độ XHCN ưu việt, vì dân, Nhà nước phải bỏ ra hàng trăm tỷ mỗi năm để duy trì những định hướng của mình. Muốn định hướng thì phải đầu tư. Nếu không, phải chấp nhận hỗn loạn như các xã hội tư bản vẫn đang chấp nhận. Nhưng nên nhớ rằng, ngay cả các nước tư bản bị mang tiếng là sẵn sàng treo cổ bố mình lên để kiếm lời họ cũng sử dụng quyền lực của mình để lấy tiền tài trợ cho điện ảnh nghệ thuật từ các nguồn quảng cáo truyền hình và chiếu phim giải trí. Mới cách đây vài tháng, Chính phủ Pháp còn kiên nhẫn khuyên chúng ta hãy giữ vững chính sách tài trợ cho điện ảnh, hãy dùng quyền của mình để bắt cá lớn nuôi cá bé trong kinh tế thị trường vì đó là hành vi của một thể chế có bản lĩnh văn hoá và có trách nhiệm xây dựng con người. Nước ta luôn đau đáu một định hướng xây dựng nền điện ảnh tiên tiến đậm đà bản sắc sân tộc lại dễ dàng phủi tay buông bỏ ngành điện ảnh và trông chờ vào tư nhân bỏ tiền ra làm định hướng cho mình như một thứ Ram-bô bỏ tiền ra lập quân đội riêng chiến đấu cho ước vọng của đám tài phiệt Mỹ hay sao?
Khi “Gái nhảy” chiếu ở Locarno, khán giả châu Âu không coi đó là phim giải trí hốt bạc như cách nghĩ của ta. Họ tìm thấy ở đó một cái nhìn của nghệ sĩ Lê Hoàng nhìn thẳng vào bóng tối. Khi anh đến LHP Ban Mê Thuột, mọi người vẫn coi anh là đạo diễn phim nghệ thuật, tác giả của Lưỡi dao và Ai xuôi Vạn lý, vẫn quây quần thân mật bên anh. Vậy mà anh lại mặc cảm tự coi Gái nhảy và Lọ lem hè phốchỉ là phim thương mại thuần tuý, tự xếp mình bên cạnh Vũ Ngọc Ðãng để rồi bật khóc vì thấy lẻ loi. Anh phải là đại diện cho niềm tin sáng tạo của chính mình, đại diện cho niềm cô đơn và tủi nhục của một nghệ sĩ, sao anh lại nghĩ rằng mình chỉ là đại diện cho một loại phim, một kiểu doanh nghiệp làm phim? Hay chúng ta đã gắn bó gan ruột với bao thứ vô hình trong quá khứ, như cô Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã sống quá lâu với người chết nên trở thành một kẻ mộng du?
Tôi ngờ rằng anh tưởng vậy thôi, chứ cái nỗi niềm thẳm sâu khiến anh bật khóc chính là cái nỗi đau dồn tụ nhiều ngày trong thân phận nghệ sĩ nhiều tâm huyết nhưng luôn bị xúc phạm trong kinh tế thị trường đầy khôn ngoan, tráo trở. Ít ra, những giọt nước mắt của nghệ sĩ cũng chứng tỏ đồng tiền và những con buôn quanh năm tôn thờ nó đã thất bại trong mưu đồ xoá sổ nỗi cô đơn.
Tôi viết thư này cho anh khi những suy nghĩ và cảm xúc nhất thời dấy lên trong LHP kia đã lắng xuống như cặn nước lắng xuống đáy cốc, chỉ còn một chút buồn thoang thoảng đã tan vào khoảng nước trong veo.
Hà Nội 30.11.2004
(Đăng trên báo Văn Nghệ số 49, ngày 04.12.2004)
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá