Bàn thêm về thuộc tính của nghệ thuật
Đảng ta khẳng định: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vừa bảo đảm cho vănhoá, nghệ thuật, báo chí phát triển
Mỹ học trước Mác đã đề cập đến các góc độ khác nhau về thuộc tính của nghệ thuật. Mỹ học duy tâm khách quan cho rằng nghệ thuật mang tính chất thần linh, huyền bí. Platôn, nhà triết học Hy Lạp cổ đại quan niệm nghệ sĩ là những người đặc biệt, do thần linh đầu thai xuống trần gian để làm bạn với cái đẹp. Sáng tạo nghệ thuật là do sự chi phối của thần linh, sự thể hiện cảm hứng của thần linh. Hêgen, nhà triết học cận đại Đức đã khảo sát công phu vai trò của chủ thể sáng tạo nghệ thuật trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh khách quan với tâm hồn và dục vọng con người. Nhưng
Mỹ học duy tâm chủ quan quan niệm nghệ thuật là sự thể hiện thế giới nội tâm của cả nhân nghệ sĩ, không liên quan đến cuộc sống hiện thực. Cantơ, nhà triết học cận đại Đức, cho rằng nghệ thuật chỉ giúp cảm nhận những cảm giác chủ quan đặc biệt của con người. Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của cái tôi siêu nghiệm, cái nằm bên kia sự nhận thức, vượt lên trên ý thức, gắn liền với niềm tin, đạo đức - một cái bí ẩn tượng trưng cho ý chí tự do, linh hồn bất tử, Thượng đế.
Tóm lại, mỹ học duy tâm đã có công phát hiện ra vai trò năng động của chủ thể thẩm mỹ.trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, khẳng định tính độc đáo và sức mạnh kỳ diệu của nghệ thuật phụ thuộc vào hứng thú, năng lực nhận thức, tưởng tượng vàbiểu hiện của chủ thể sáng tạo. Đến nay, thiên tai và bí mật của quá trình sáng tạo vẫn là những vấn đề còn nhiều tranh luận. Nhưng việc quan niệm chủ thểthẩm mỹ là một khả năng tiêm nghiệm,hoạt động do sự chi phối của một thực thể tinh thần bên ngoài thế giới thể hiện.các lý giải duy tâm, thần bí về thuộc tính của nghệ thuật. Mỹ học duy tâm đã phủ nhận việc phản ánh cuộc sống với tư cách là một thực thể tồn tại độc lập khách quan với ý thức.
Trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm duy tâm thần bí nêu trên, mỹ học duy vật trước Mác đã nhấn mạnh tính chân lý khách quan của nghệ thuật. Các nhà duy vật trước Mác khẳng định nghệ thuật là sự bắt chước, mô tả, giải thích đời sống hiện thực thẹo một quan điểm thẩm mỹ nhất định, gắn với những lực lượng tiến bộ của thời đại.
Mỹ học duy vật cổ đại đề cập đến tính xã hội của nghệ thuật, đề cao giá trị chân - thiện - mỹ của tác phẩm nghệ thuật. Về sau, quan niệm này phát triển
Các nhà dân chủ cách mạng Nga đã tính cực đưa nghệ thuật trớ về với cuộc sống của nhân dân. Biêlinxki đã đề cập đến tính dân tộc của nghệ thuật nhưng chưa luận chứng một cách khoa học. Tsec- nưsepxki đã đề cập đến tính khuynh hướng trong nghệ thuật. ông cho rằng khuynh hướng tiến bộ, tiền tiến giúp thêm vào tính chân thực và sức sống của hình tượng nghệ thuật. Đôbrôliubôp quan niệm nghệ thuật thể hiện chân lý cuộc sống, biểu hiện những lợi ích, những khát vọng của nhân dân chống lại chính quyền chuyên chế độc đoán đương thời.
Tiến bộ vượt bậc của các nhà mỹ học duy vật trước Mác là đã đánh tan những linh cảm thần bí của mỹ học duy tâm, gắn nghệ thuật với cuộc sống, gắn cái đẹp với những giá trị tiến bộ của xã hội. Nhưng do quá cường điệu yếu tố hiện thực mà họ bỏ quên hoặc chưa quan tâm đúng mức đến tính năng động của chủ thể thẩm mỹ và sự thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố hiện thực và tưởng tượng chủ quan và khách quan trong sáng tạo nghệ thuật.
Khắc phục những khuynh hướng sai lầm, phiên diện và kê' thừa, phát triển những tinh hoa mỹ học của nhân loại, mỹ học macxít quan niệm nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức con người, đồng thời là sự thể hiện đời sống tinh thần con người. Hai mặt phản ánh và thể hiện gắn bó hữu cơ với nhau, không thể chia cắt.
Nghệ thuật là sự thể.hiện cuộc sống và tâm hồn con người nên nó mang trong mình bản chất người, bản chất xã hội, đời sống từng cá nhân và đời sống cộng đồng.
Trước hết, mỗi tác phẩm nghệ thuật làmột cảm xúc, một sự nhận thức, sự giải thích, một lời đề xuất của nghệ sĩ đối với cuộc sống. Đó là nỗi lòng, tiếng nói xuất phát từ trái
Cộng đồng gần gũi nhất với nghệ sĩ là dân tộc. Ngôn ngữ, hình thái tư duy và cảm xúc, đặc điểm truyền thống trong phong cách, phương thức biểu hiện cũng như loại hình, loại thể của dân tộc là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn và tài năng của nghệ sĩ. Con người, cuộc sống trong quá khứ, hiện tại, tương lai của dân tộc là chất liệu cơ bản của tác phẩm nghệ thuật. Đảng ta quan niệm nghệ thuật không đóng cứa theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nhưng cũng không bắt chước, "lai căng", "nhai lại những cặn bã của văn nghệ tư sản suy đồi", mà phải biết tiếp thu có chợn lọc và các biến những tinh hoa của nền văn hoá thế giới phù hợp với tâm hồn, truyền thống người Việt Nam.Như vậy, nghệ thuật thể hiện cốt cách, sắc thái của dân tộc trong mối quan hệ giao lưu vớivăn hoá nhân loại.
Trong đời sống xã hội, đặc biệt ở những thời kỳ chấn động dữ dội của lịch sử, từ những vấn đề riêng tư nhất như tình yêu, hạnh phúc gia đình đến những vấn đề lớn lao hơn như quyền - nghĩa vụ, danh dự, lương tâm... đều ít nhiều chịu ánh hưởng, bị sự chi phối cua số phận giai cấp, dân tộc. Lênin cho rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã phân hoá mỗi dân tộc thành hai lực lượng đối lập, với hai nền văn hoá đối lập Nền văn hoá của cách mạng, của nhân dân đang chống lại ảnh hưởng văn hoá của giai cấp thống trị phản động để bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Nghệ sĩ chân chính là người tự nguyện bảo vệ nền văn hoá của nhân dấn - văn hoá xã hội chủ nghĩa. Bàn về vấn đề này,
Nghệ thuật được các nhà mỹ học macxít công khai thửa nhận 'như một hiện tượng của ý thức hệ của một giai cấp nhất định, một thành tố của cuộc đấu tranh giai cấp.Đó là một điều hiển nhiên mà các nhà mỹ học tư sản cố tình che đậy. Quan niệm đó xuất phát từ sự kế thừa, nâng cao quan niệm của nhiều nhà mỹ học duy vật trước Mác và phù hợp với lịch sử phát triển của nghệ thuật trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật mang tính giai cấp mà biểu hiện tập trung cao nhất là tính đảng. Trong khi khẳng định nghệ thuật có tính đảng cộng sản, Lênin đồng thời nhấn mạnh đặc thù của nghệ thuật là "phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân (...) cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung". Tuy nhiên, tự do cá nhân của nghệ sĩ phải phù hợp với tự do của nhân dân - lực lượng làm nên lịch sứ, không được lợi dụng tự do ngôn luận để "nói láo, nói bậy và biếttheo sở thích của anh" để tuyên truyền quan điểm chống Đảng. Bởi vì lợi ích của Đảng cộng sản là phù hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân lao động.
Nghệ sĩ chân chính của thời đại nào cung là người tự nguyện sống cuộc sống của nhân dân, đau nôi đau của nhân dân, tự trang bị cho mình những tri thức cần thiết, luôn đứng ở mũi nhọn của những xung đột xã hội... để làm nên những tác phẩm nghệ thuật có giá trị phục vụ nhân dân. Lịch sử nghệ thuật thế giới cho thấy, với nhưng tác phẩm nghệ thuật kiệt xuất, giá trị nhân bản của chúng không chỉ là tư tưởng, là giá trị của cá nhân, dân tộc, giai cấp mà còn là tài sản tinh thần của nhân dân, của thời đại, của nhân loại.
Không thể có nghệ thuật thuần tuý, hay "nghệ thuật vị nghệ thuật". Tính cá nhân tính dân tộc, tính giai cấp, tính Đảng, tính nhân dân, tính thời đại, tính nhân loại... được biểu hiện trong các tác phẩm nghệthuật ớ những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tầm vóc giá trị của tác phẩm. Trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu mỹ học macxít khi bàn về thuộc tính của nghệ thuật thường không đề cập đến tính cá nhân, mà nhấn mạnh đến tính giai cấp, Đảng, nhân dân. Quan niệm đó dẫn đến một số tác phẩm nghệ thuật thiên về thể hiện cái
Thứ nhất, sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và những khó khăn của phong trào cách mạng thế giới làm cho một số người hoang mang, hoài nghi về lý tưởng cuộc sống, tương lai của dân tộc và loài người.
Thứ hai, xu hướng nghệ thuật thế giới là chú trọng khai thác đời sống nội tâm con người. Tình hình đó làm cho một số nghệ sĩ lúng túng trong việc phản ánh hiện thực khách quan, tán đồng quan điểm nghệ thuật thể hiện cái bí ẩn của tâm hồn cá nhân riêng rẽ, bế tắc, thoát ly thực tại.
Để khắc phục hai khuynh hướng phiến diện trên, cần phải khảo sát nghệ thuật trong mối liên hệ giữa tính cá nhân với những thuộc tính khác. Đó là sự thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa ý thức cá nhân với ý thức cộng đồng, giữa sự phản ánh hiện thực khách quan với việc biểu hiện thế giới tình thần con người.
Có thể nói, tác phẩm nghệ thuật là sự giao lưu, đối thoại giữa nghệ sĩ và công chúng. Sức hấp dẫn của tác phẩm là sự cảm nhận, sự lý giải độc đáo của nghệ sĩ đối với những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Sự tác động đến công chúng rộng rãi hay hẹp, tốt hay xấu tuỳ thuộc vào tầm vóc nội dung, giá trị tư tưởng mà tác phẩm thể hiện.
Quan niệm về thuộc tính của nghệ thuật trong mỹ học macxít đã mở ra một khoảng rộng cho đôi tượng của nghệ thuật, phát huy những nét độc đáo trong tâm hồn, tài năng nghệ sĩ, nhằm hướng nghệ thuật vươn đến những giá trị cao cả: tất cả vì hạnh phúc con người. Đó cũng chính là định hướng chính trị, tư tướng của Đảng ta.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất Thịnh"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan Đăng