Bình đẳng về Danh dự và Phẩm giá
Bình đẳng trở thành một trong những triết lý quan trọng nhất của xã hội phương tây kể từ cuộc cách mạng Pháp cách đây hơn 200 năm, cùng với khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do, Bình đẳng, Bác Ái”. Bình đẳng là một ý tưởng gây tranh cãi của triết học, bởi liên quan đến nhiều khái niệm phức tạp. Tuy nhiên từ khoảng 1960 tới nay, một trong các khái niệm này, Bình Đẳng Đạo Đức, đã đạt được sự đồng thuận cao trong mọi trường phái triết học và được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa phương tây. Mọi học thuyết mới đi ngược lại với khái niệm này đều coi là không đủ sức thuyết phục.(1)
Bình đẳng Đạo Đức có nghĩa là về nguyên tắc, tất cả mọi người trong xã hội đều bình đẳng với nhau về Danh dự và Phẩm giá, xứng đáng được tôn trọng và quan tâm như nhau. Điều này có vẻ khó tin, bởi xã hội nào cũng có người giầu, kẻ nghèo, người địa vị cao, kẻ không địa vị. Nhưng trên thực tế, người phương tây từ nhỏ đã được giáo dục để hiểu rằng phân biệt đối xử là bất lịch sự, thậm chí vô nhân đạo. Và họ cố gắng áp dụng Bình đẳng Đạo đức ở mọi nơi có thể.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay là các xã hội Trọng Tài. Triết lý của một xã hội Trọng tài là tài năng được khuyến khích đầy đủ thì sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất, thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên, tài năng là một khái niệm trừu tượng và thường được người đời đo bằng Tiền bạc, Địa vị xã hội, Bằng cấp, Giải thưởng. Sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển ở phương tây và các quốc gia kém phát triển phương đông là ở chỗ: ở phương tây, con người chỉ khác nhau trên phương diện vật chất, về vị trí làm việc, nhưng được bình đẳng với nhau về mặt tinh thần; trong khi ở phương đông, nếu bị coi là kém tài thì cả vật chất lẫn tinh thần đều bị thua thiệt. Theo tháp Tâm lý của Maslow, Nhu cầu được Tôn trọng là một trong những Nhu cầu Cơ bản nhất của con người (chỉ sau các Nhu cầu Bản năng: Ăn, Ngủ, Hít thở,…). Chính vì vậy ở phương đông, cuộc sống của những người nghèo, người ít địa vị trở nên khổ sở, nhiều mặc cảm, tự ti hơn. Trong khi đó họ lại là lực lượng chiếm đa số trong xã hội.
Liên quan đến vấn đề này, John Rawls, một trong những triết gia hàng đầu của thế giới, đã dành 20 năm nghiên cứu để viết cuốn Lý thuyết về sự công bằng(2) rất nổi tiếng. Lý thuyết của ông được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội. Trong đó ông nhấn mạnh “Tài năng cũng là một dạng may mắn”. Có thể coi Tài năng, Sắc đẹp, Dòng dõi Trâm anh Thế phiệt là các dạng may mắn bẩm sinh. Quý Nhân Phù Trợ, Xổ số độc đắc, Môi trường thuận lợi…là các dạng may mắn do xã hội mang lại.
Xã hội phương Đông thường cho rằng người tài bị người kém tài hơn chiếm mất vị trí là bất công, mà quên mất bất công của người kém tài hơn phải chịu đựng từ lúc sinh ra. Ngay cả trong trường hợp cố gắng hết mức thì một người cũng chỉ đạt được thành công trong đời ở mức độ nào đấy. Và như vậy, xã hội phương đông khuyến khích con người chấp nhận bất công do bẩm sinh. Phân bố tài năng của loài người theo hình tháp, càng lên cao càng ít người đạt được. Có nghĩa, số người được tôn trọng tối đa ở xã hội phương đông rất ít, số người ở mức độ được tôn trọng thấp vô cùng đông đảo.
Nhiều người cho rằng điều này là đương nhiên, kém tài hơn thì rõ ràng ít được tôn trọng hơn. Tuy nhiên, dưới góc độ triết học thì điều này không đương nhiên một chút nào, bởi không ai muốn mình bị sinh ra kém tài. Nếu như đa số người trong một xã hội, dù nỗ lực tối đa cũng chẳng thể đạt được sự tôn trọng tối đa có nghĩa là xã hội Trọng Tài ấy cũng tồi tệ chẳng kém gì các xã hội Trọng Chủng Tộc, Trọng Dòng Dõi, bởi vì nó dựa trên những đặc điểm không thể thay đổi của con người. Không ai muốn mình sinh ra là người da đen ở châu Mỹ thế kỷ 19. Cũng không ai muốn mình có nguồn gốc gia đình là nô lệ để tiếp tục đời mình cũng làm nô lệ, nếu ở thời Trung Cổ. Nếu bạn lười lao động nên bạn không có tiền là điều hợp lý. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng hết sức nhưng vì tài năng có hạn, hoặc vì bạn là người da đen, bạn có bố mẹ là nô lệ nên bạn không thể được tôn trọng tối đa, thì lại không hợp lý chút nào. Chưa kể, số lượng người phải chịu thiệt thòi dù ít dù nhiều, trong một xã hội mà sự tôn trọng dựa trên Tài Năng, vô cùng đông đảo.
Hậu quả của Bất Bình Đẳng Đạo Đức là tạo ra một xã hội thiếu nhân văn:
(i) Đa số công dân trong xã hội ít nhiều đều bị tổn thương về mặt tinh thần, bởi họ không được tôn trọng cao như mong muốn. Cùng một kiếp người, kẻ thì được sùng bái như thánh thần, kẻ thì bị coi như rơm rác.
(ii) Sinh ra những con người thoái hóa nhân cách, luồn cúi kẻ trên, nạt nộ kẻ dưới, không từ những thủ đoạn xấu để dành được Tiền bạc, Địa vị xã hội, Bằng cấp, Giải thưởng…để được coi là Tài năng. Người Việt rất bất lịch sự ở nơi công cộng, ít khi nói “xin lỗi”, “cám ơn” những người gặp thường ngày, trong khi rất giỏi xu nịnh những kẻ chức quyền;
(iii) Tiếng nói của đa số công dân không được trân trọng cho nên họ không tích cực tham gia ý kiến vào các công việc cộng đồng, không đấu tranh chống tiêu cực, mà chỉ lên tiếng khi lợi ích của bản thân bị xâm hại.
Sự thiếu tôn trọng người khác còn thể hiện ở chỗ không có khả năng cấp nhận ý kiến khác biệt. Người Việt vô tư can thiệp vào công việc của người khác khi họ không yêu cầu; khăng khăng áp đặt quan niệm, chuẩn mực của mình lên người khác mà không cần biết họ là những thực thể khác mình, lớn lên trong môi trường khác và được gia đình giáo dục hoàn toàn khác. Đã có nhiều công việc hợp tác thất bại, đặc biệt là các công việc vì cộng đồng ít mang lại lợi ích cá nhân, bởi những người khởi xướng không thực sự tôn trọng đối tác, hoặc cho rằng với tuổi tác, tài năng, địa vị, kiến thức…của mình, những người kia có nghĩa vụ phải tuân theo các “sáng kiến” của mình. Mặc dù một số hoạt động chuyên môn vẫn cần những trật tự nhất định, tuy nhiên ở những nơi công cộng và trong các lĩnh vực chính trị xã hội mà mọi công dân đều có khả năng thấu hiểu, sự tham gia của tất cả mọi người đều cần phải được trân trọng ngang nhau.
Bình Đẳng Đạo Đức cũng phù hợp với các triết lý tôn giáo. Đức Phật từ các đây hơn 2000 năm từng dạy :”Không có sự khác biệt giữa những giọt nước mắt cùng mặn và những giọt máu cùng đỏ”. Kinh thánh cũng có câu “Tất cả các linh hồn đều bình đẳng trước Chúa”. Một xã hội Bình đẳng Đạo đức không đòi hỏi ai phải biết ơn ai, (trừ những người trực tiếp giúp đỡ mình), để tránh sự thần thánh hóa cá nhân. Đại diện của xã hội sẽ tri ân những người có nhiều đóng góp với xã hội nhưng từng cá nhân thì không tự động có nghĩa vụ ấy. (Mặc dù ngay cả tri ân như thế nào là vừa cũng cần phải tranh luận). Điều này còn có nguyên do là cuộc sống của mỗi người bao gồm cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Người tài được xã hội tri ân không phải vì họ tài năng hơn người mà bởi họ góp phần tạo ra của cải vật chất cho cộng đồng. Tuy nhiên người tài không tạo ra được, mà ngược lại, có thể làm tổn hại những giá trị tinh thần quan trọng nhất của những người khác – đó là sự tự tôn và sự trân trọng của xã hội đối với họ. Hạnh phúc chân chính của mỗi người phải do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra và được xã hội ghi nhận chứ không phải từ sự ban ơn của ai, bởi ơn nghĩa cũng giống như món nợ về mặt tinh thần, là điều những người tự trọng không mong muốn. Chính vì vậy, xã hội Bình đẳng Đạo đức không yêu cầu ai phải mang ơn ai, mà cố gắng tìm kiếm và tôn vinh những dạng tài năng khác nhau, tạo điều kiện để cho càng nhiều người có cơ hội đóng góp cho xã hội càng tốt. Ngược lại, những người được hưởng nhiều quyền lực, bổng lộc từ xã hội cũng cần phải cảm thông với những người khác, bất đắc dĩ phải tham gia vào cuộc đời này với những bất lợi bẩm sinh hoặc bất lợi do xã hội đem lại.
Ở phương đông, công dân đã được giáo dục về Bình đẳng về Luật Pháp. Bình Đẳng về Đạo Đức là khái niệm rộng hơn, đòi hỏi người dân có nghĩa vụ tôn trọng lẫn nhau, cố gắng tư duy và đối xử một cách công bằng. Nghĩa là, nếu bạn khiến người khác phiền muộn bởi những hành vi không tôn trọng họ hoặc cho rằng họ không cao quý, không giá trị bằng người nọ người kia, thì cũng không ai bỏ tù bạn. Nhưng bạn cần ý thức rằng điều đó là vi phạm đạo đức. Bình đẳng Đạo đức không có nghĩa là cào bằng. Những người tài năng hơn vẫn có thể có nhiều của cải vật chất hơn, công việc ưng ý hơn. Nhưng trong phép xã giao nơi công cộng, tất cả mọi người đều đáng được trân trọng như nhau.
Vẫn còn một câu hỏi đặt ra: “Có những người nhất định không tin rằng mình bình đẳng với một ai đó, do ngưỡng mộ, cảm phục; hoặc giống như trẻ vị thành niên, họ cần những hình mẫu lý tưởng để noi theo?” Những người này được quyền từ chối quyền bình đẳng của họ, nhưng họ cần hiểu rằng nhiều người khác trong xã hội cũng có quyền không nghĩ giống họ. Xây dựng những hình mẫu để định hướng mục đích sống cho thế hệ teen cũng là điều đáng bàn. Ở quốc gia nào cũng vậy, số lượng người không theo đuổi một chuyên môn hay có đam mê đặc biệt nào bao giờ cũng chiếm đa số. Những người này cần được định hướng vào các công việc giúp đỡ cộng đồng, và cần có những hình mẫu là những người hoạt động xã hội. Nhiều người cho rằng xã hội Việt nam còn nghèo cho nên tính nhân văn và cộng đồng cũng yếu kém. Cuối thế kỷ 19, mức sống trung bình của người dân Mỹ cũng thấp như ở Việt nam hiện nay. Tuy nhiên điều tra xã hội thời đó cho thấy, trong số 10 người được trẻ vị thành niên mong muốn phấn đấu noi theo nhất có Clara Barton, nữ giáo viên, hộ lý và là người sáng lập ra Tổ chức chữ thập đỏ Mỹ, và Annie Sullivan, một nữ giáo viên giành cả đời để giáo dục người khuyết tật.(3)
Ngày nay, niên lịch những ngày kỷ niệm quốc gia chính thức (public holidays) của Mỹ chỉ có ba ngày mang tên các danh nhân: (i) Ngày Colombus, người khám phá ra châu Mỹ, (ii) Ngày Martin L. King, nhà hoạt động nhân quyền người da đen, (iii) và Ngày Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ. (Ngày Washington cũng đang dần mất đi, thay bằng Ngày Tổng thống để kỷ niệm chung cho tất cả các đời tổng thống Mỹ). Một xã hội mà tính nhân văn, cộng đồng được đề cao, sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho các hoạt động quản lý và dẫn đến thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Tôi cho rằng trước nay giáo dục nhân văn ở Việt nam không mấy thành công là do hệ thống truyền thông ở nước ta không tuyên truyền đủ mức hoặc chưa thực tâm coi trọng những người sống vì cộng đồng ngang bằng những người thành đạt trong giới chính trị gia, quân sự gia, doanh nhân, văn nghệ sỹ và khoa học gia. Giới trẻ ngưỡng mộ những người thành đạt, nhưng đa số họ không có những tố chất và đam mê cần thiết để trở thành những người như thế, và do đó họ hoang mang, mất định hướng, chán đời. Tôi cho rằng, các tổ chức truyền thông và phát triển văn hoá nên thường xuyên điều tra, công bố các thống kê về biểu tượng xã hội, đầu tư nhiều hơn vào xây dựng những bộ sách về Những Tấm lòng Cao cả để dần dần điều chỉnh các hình mẫu của cộng đồng. Những hình mẫu này không nhất thiết phải là những anh hùng, phải hi sinh quá nhiều cho người khác, mà chỉ cần có những hành động nhân văn hơn mức bình thường một chút để cho người dân có thể làm theo. Đầu tư mạnh tiền của và công sức tôn vinh những hình mẫu cụ thể bằng xương bằng thịt sẽ có hiệu quả cao hơn gấp nhiều lần những bài giảng đạo đức thuần túy.
Bình Đẳng Đạo Đức đã trở thành một giá trị phổ quát ở các quốc gia văn minh nhưng còn thiếu trong triết lý phát triển của xã hội Việt nam. Tôi hi vọng rằng những người có tâm huyết với xã hội sẽ quan tâm đầu tư nhiều hơn để nâng cao dân trí về vấn đề này.
(1)http://plato.stanford.edu/entries/equality/
(2) “A theory of Justice”. John Rawls, 1971, 1999.
(3) “What price fame?” Tyler Cowen.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu Nhơn