Kinh Tế thị trường và Xã hội Công dân như một Hệ thống: Trường hợp Việt Nam
Bài viết này thử nhìn kinh tế thị trường và xã hội công dân như một hệ thống và điểm lại tình hình Việt
Những ý chính của bài này như sau:
•Xã hội công dân cần có thể chế bảo đảm con người tự do phát huy khả năng của mình mà vẫn giữ được sự đồng thuận xã hội về lý tưởng cao cả nhất là: bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúcghi trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam (1945).
•Về mặt kinh tế, kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân, dù với những hạn chế của nó, vẫn có thể là thể chế xã hội hữu hiệu nhất để công dân có thể tự do phát huy khả năng nếu như nhà nước thực hiện trách nhiệm bổ sung những gì mà kinh thị trường và sở hữu tư nhân không thể giải quyết đuợc nhằm đưa xã hội tiến gần tới những lý tưởng trên.
•Trên bình diện thế giới, hoạt động kinh tế ngày càng được toàn cầu hoá ở mức cao hơn, tư bản quốc tế chỉ có một mục đích duy nhất là lợi nhuận, các thể chế toàn cầu hiện nay cũng chỉ nhằm mục đích duy nhất là xác định và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là tăng cường bảo vệ sở hữu trí thức, mà họ có ưu thế tuyệt đối nhằm tạo độc quyền. Việt
Kinh tế học là một khoa học xã hội. Đã là khoa học xãhội,tấtnóphảidựatrênmộtsố nguyên tắc triết học hoặc chính trị nào đó. Ngay cả đến thống kê đo lường để đánh giá nền một nền kinh tế cũng không thoát khỏi nguyên tắc này. Thí dụ như khái niệm "tổng sản phẩm quốc nội (GDP)" của Liên Hợp Quốc dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường, dùng giá thị trường, coi dịch vụ trên thị trường cũng nằm trong phạm trù sản xuất. Chính vì thế, khi đưa ý kiến cá nhân trong một số bài viết về kinh tế Việt Nam, tác giả cũng dựa trên quan điểm kinh tế thị trường và một cách nhìn về xã hội công dân, mà vào những năm đầu thập kỷ 80, không thể nói thẳng ra, nhưng rồi do chính sách mở cửa và sự đồng thuận xã hội, kinh tế thị trường được chấp nhận và các tranh luận về quan điểm xã hội ngày càng được mở rộng hơn, như Báo cáo Chính trị của Đảng trong đại hội 9 năm 2001 đã viết về mục tiêu xây dựng đất nước trong đó có quan điểm "chấp nhận những điểm
khác nhau không trái với lợi ích dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, kỳ thị về quá khứ, giai cấp thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở và tin cậy lẫn nhau, hướng về tương lai." Bài này được viết ra trên tinh thần đó.
1.Bàn Về Một Xã Hội Công Dân TựDo
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc..
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩalà:tấtcảcác dântộctrênthế giới đềusinhrabình đẳng; dântộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
.Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được..
Bình đẳng, tự do, sự sống, mưu cầu hạnh phúc đã trở thành nguyên lý trong bản Tuyên bố Độc lập của Việt
Nghĩ kỹ, những câu văn đẹp đẽ trên là một lý tưởng hơn là những sự thật hiển nhiên. Chắc chắn con người sinh ra không bình đẳng vì có người thông minh có người không, có người có sức khỏe có người không, có người gặp may mắn có người gặp rủi ro, có người có thừa kế về vật chất vàtinhthần đáng kể của cha mẹ có người không, có ngườilàm lãnh đạo chính quyền có người không. Bình đẳng phải hiểu theo hai vế:
(1) bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng về cơ hội, và
(2) bù lại những thiệt thòi cho những người phải chịu đựng sự bất bình đẳng do "tạo hoá" mang đến.
Tự do như ta hiểu ngày nay cũng không phải là điều hiển nhiên. Người thượng cổ chưa chắc đã đặt vấn đề này. Suy nghĩ về tự do chỉ xuất hiện khi con người phải đối phó với quyền lực chính trị đặt trên cơ sở bất bình đẳng.Khi quyền lực rơi vào tay kẻ mạnh và độc đoán, các hành động cưỡng chế của họ áp đặt lên kẻ khác đã khiến con người suy nghĩ đến ý niệm tự do, và cuối cùng là độc lập dân tộc. Sự tiến hoá của loài người là quá trình mà cuộc sống bắt con người phải chung đụng nhau, tạo thành các tập thể người, nhất là khi họ phải chia sẻ một vùng địa lý hoặc những quan điểm gần gũi về cuộc sống, về thiên nhiên, về thế giới sau khi chết.
Những tập thể người nào tồn tại cho đến nay là do nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do quan trọng nhất là họ duy trì được sự đồng thuận xã hội (social concensus), mặc dù những gì đồng thuận thì luôn thay đổi. Địa lý khác nhau, phương thức sản xuất khác nhau và lại thay đổi, ảnh hưởng qua lại của giao lưu văn hoá giữa các xã hội tạo nên sự thay đổi về nội dung đồng thuận. Tự do là một trong những nhân tố tạo ra đồng thuận.
Đồng thuận xã hội không phải là kết qủa của đạo đức hay tư duy thuần lý. Đạo đức hay tư duy thuần lý giúp tạo ra sự đồng thuận xã hội nhưng sẽ gây nhiều tai hại và rồi sẽ thất bại nếu có tínhápđặt. Tưduythuầnlýthường hàm ý đạo đức (đúng sai) dođódễcótínhápđặt.Tư duy thuần lý trên thực tế có lẽ chỉ áp dụng được trong toán học. Khách quan thay đổi và do đó tư duy thay đổi. Không một xã hội nào tiếp tục chạm mặt với cùng một thực tế khách quan. Khách quan thì muôn mầu muôn vẻ, thay đổi liên tục, và tri thức con người về khách quan xã hội lại luôn luôn hạn chế, không bao giờ toàn bích, do đó không có một luận thuyết thuần lý nào có thể đứng vững mãi với thời gian. Không thể có ai tài ba, kể cả thượng đế, có thể vẽ ra một hệ thống toàn bích đầy lý tưởng vì con người mà thành công khi áp đặt nó trên xã hội.
Văn minh hiện đại cho thấy thể chế xã hội cần có những nguyên tắc cơ bản để con người biểu hiện tính tự do, đồng thời bổn phận và trách nhiệm của họ. Sự đồng thuận xã hội đạt được khi con người thành viên được đặt ở vị trí trung tâm của xã hội. Lúc đó con người vừa là tự do, vừa có trách nhiệm và bổn phận.
Tự do cá nhân chỉ có ý nghĩa khi đặt trong một môi trường xã hội, do đó tự do đi liền với bổn phận và trách nhiệm. ở đây, tác giả muốn dùng từ bổn phận theo nghĩa hoàn toàn không có tính cưỡng bách như bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Bổn phận hàm nghĩa tự nguyện cho dù dựa trên ý chí cá nhân tự thân, hay do ảnh hưởng của đạo đức, văn hoá. Trách nhiệm có tính chất cưỡng bách như trách nhiệm đóng thuế, đi quân dịch, tôn trọng luật pháp quốc gia.
Trách nhiệm có tính cưỡng bách nhưng xã hội không thể chỉ tồn tại bằng cưỡng bách dù chúng đã được minh bạch hoá bằng luật pháp. Do đó xã hội cần có những nhân tố vượttrên sự cưỡng bách,đólàbổnphậntrêncơsởđạođứccánhânvềđúng,sai,tốtxấu,tìnhngười,ýthứccộng đồng, nói tóm lại là một nền văn hoá lấy con người làm trung tâm. Tính chất cưỡng bách của xã hội dù là bằng luật pháp cũng chỉ nên ở mức không thể không có với mục đích bảo đảm tự do và bình đẳng cho mọi người trong xã hội.Nói tóm lại, một xã hội coi con người là trung tâm, nếu như:
•Thành viên là những con người tự do, nguồn gốc của động lực phát triển của xã hội và có quyền tham gia một cách dân chủ vào việc xây dựng nền tảng của môi trường xã hội;
•Thành viên không chỉ là những con người tự do độc lập mà là một bộ phận của xã hội, do đó cần một môi trường thể chế vừa hạn chế các hành vi ứng xử có hại cho thành viên khác, vừa bảo đảm được tính công lý của nó (thể hiện rõ nhất là nguyên tắc không phân biệt đối xử, bình đẳng).
•Bình đẳng không hẳn là điều tự nhiên nhưng những bất bình đẳng do "tạo hoá" và xã hội tạo ra (như có người lãnh đạo có người bị lãnh đạo) phải thoả mãn được hai điều kiện: bình đẳng về cơ hội tham gia và tạo ra lợi ích lớn nhất cho những người không may mắn nhất.
Thế chế (institutions) chính là môi trường xã hội con người sinh hoạt trong đó dù nhỏ như gia đình, một hiệp hội hay lớn như một quốc gia. Nó bao gồm năm khía cạnh khác nhau:
(1) tập tục, tập quán được chấp nhận rộng rãi, hoặc luật chơi (luật lệ) được xã hội chấp nhận;
(2) cách thức tục cần thiết để tập thể quyết định luật chơi cho tập thể đó;
(3) cách thức cần thiết để thực thi luật chơi;
(4) cách thức cần thiết để giải quyết tranh chấp khi có sự hiểu biết khác nhau về luật chơi; và cuối cùng là
(5) cách thức cần thiết để xử lý khi có thành viên vi phạm luật chơi.
Tập thể nào, dù nhỏ như gia đình, cũng cần đến một hệ thống thể chế thành văn hay không thành văn để bảo đảm sự tồn tại của tập thể đó. Thể chế có thể dựa chủ yếu trên áp đặt hoặc được xây dựng trên tinh thần tự nguyện.Sự tồn tại lâu dài của một tập thể xã hội chứng tỏ rằng tập thể đó chấp nhận thể chế đó và đã đóng góp vào qúa trình hình thành cũng như thay đổi thể chế cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Nhìn rộng ra cho một quốc gia, cuộc cách mạng dân chủ từ đầu thế kỷ thứ 18 cho thấy những tiêu chí cần thiết sau cho một xã hội tự do và bình đẳng:
•Lý tưởng của con người và xã hội được thể hiện bằng hiến pháp;
•Việc thực hiện lý tưởng trên được thể hiện một cách cụ thể và minh bạch bằng pháp luật, qui định, chính sách của nhà nước và được quyết định trên cơ sở dân chủ;
•Pháp luật là tối thượng, áp dụng không có phân biệt đối xử đối với mọi công dân;
•Con người tự do hành động và quyết định trong phạm vi những gì mà pháp luật không cấm hoặc bắt buộc làm;
•Có định chế cân bằng và kiểm soát lẫn nhau giữa cơ quan quyền lực nhà nước: hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Đây là những tiêu chí cần thiết để xã hội tiến tới đồng thuận, cơ sở của sự ổn định xã hội.
Về mặt kinh tế, kinh tế thị trường và tư hữu là hai quan điểm về thể chế kinh tế giúp bảo đảm và phát huy tự do cá nhân. Kinh tế thị trường là thể chế bảo đảm con người có quyền tự do kinh doanh, mà muốn vậy nó phải có thể chế bảo đảm tư hữu do chính con người tạo ra một cách hợp pháp. Nhưng ngay cả trong phạm vi mà tự do và sáng kiến cá nhân được đề cao như trong kinh tế thị trường, sự can thiệp của nhà nước vẫn tỏ ra cần thiết trong một số lãnh vực mà nội dung của chúng là những vần đề cần bàn sau đây.
2Tự do Kinh Doanh: quá trình chuyển biến ở Việt
Quá trình cải cách ở Việt
2.1Nông nghiệp
.Tự chủ về sản xuất năm 1989 (tự chi phí và tự phân phối sản phẩm) của nông dân trên mảnh ruộng họ được giao đã tháo gỡ những cản trở tính năng động của họ. Nó biến Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo mỗi năm gần nửa triệu tấn từ sau khi thống nhất đến năm 1988 sang một nước thừa ăn, xuất khẩu trên 1,4 triệu tấn chỉ một năm sau đó. Có lẽ không có gì có thể phản ánh khả năng tự vận động của người nông dân Việt
.Muốn giải quyết vấn đề nông thôn, tính tự chủ của người dân Việt
.Và cũng không thể tiếp tục chính sách hộ khẩu như hiện nay. Chính sách hộ khẩu không cho phép người từ nông thôn lên sống và làm việc ở thành phố nếu không được phép. Họ chỉ có thể có hộ khẩu nếu có nơi ở ổn định và có quyết định tiếp nhận của cơ quan có thẩm quyền (chẳng hạn như sau khi xin được việc làm). Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 520 ngàn người tạm trú có thời hạn (tức là có phép) và 300 ngàn thời vụ (tức là không có phép) trong tổng số hơn 5 triệu dân. Trước kia thì các thành phố đã bắt xúc đuổi họ về nông thôn, nhưng nay thì đành chịu. Tuy vậy người tạm trú bị mất rất nhiều quyền lợi, chẳng hạn nếu sinh con thì không được đăng ký hộ khẩu cho con, đưa đến việc con cái không được hưởng những quyền lợi xã hội tối thiểu như giáo dục, y tế miễn phí. (Coi báo Lao Động
Trả lời: đó là những gì còn sót lại của thời kỳ mà mọi vấn đề đều phải do nhà nước hoạch định, vì nhà nước sợ nông dân đổ xô lên thành thị gây những vấn đề xã hội (chỗ ở, điện nước, môi trường, v.v.) mà không có khả năng giải quyết, cũng như nhu cầu kiểm soát chính trị thời chiến. Vậy thì giải pháp như thế nào? Trước tiên cần phải nói giải pháp phải dựa trên cơ sở quyền tự do đi lại của công dân đã được khẳng định trong hiến pháp (mặc dù còn một câu thòng .do luật pháp qui định. để tước bỏ quyền tự do này). Sau nữa, cần phải xác định một số qui luật kinh tế đã xảy ra trong lịch sử phát triển của thế giới như sau:
•Thành thị hoá là quá trình tất yếu của phát triển. Việc dân tập trung dân ở thành thị là quá trình kinh tế tự nhiên nhằm sử dụng hiệu qủa sản xuất lớn, tăng hiệu quả và giảm giá cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho hoạt động sản xuất (giao thông phân phối, thị trường cung ứng và tiêu thụ, điện, nước, điện thoại, lao động trí óc, thông tin, tiếp nhận những ảnh hưởng ngoại vi khác.)
•Pháttriểnthànhphốcùngvớicôngnghiệpvàdịchvụ,giảmdânnôngthônlàcon đường duy nhất để nâng cao đời sống của trên 75% dân số là nông dân. Khi khả năng tăng thu nhập bằng nông nghiệp thấp thì việc giảm dân là cách duy nhất để nâng cao thu nhập đầu người của những người còn lại.
•Thànhthịhoálàvừalàkếtqủacủapháttriểnvừalàđộnglựcđẩymạnhpháttriển, nhưng ở một nước đông dân và địa lý trải dài như Việt Nam, không thể chỉ tập trung phát triển một hai thành phố mà phải chủ động trải rộng sự phát triển ra nhiều vùng, tạo động lực phát triển cả nước, đồng thời tránh thu hút nông dân vào một vài thành phố.
Việc này cần chính sách của nhà nước, đòi hỏi chuyển thuế thu ở vùng giầu sang vùng nghèođểxâydựnghạtầngcơsở.Tốcđộpháttriểncủacảnềnkinhtếcóthểthấp xuống nhưng đó là cái giá phải trả, dựa trên công lý tạo ra lợi ích lớn nhất cho những người không may mắn nhất đã bàn ở trên. Quan điểm này khác xa quan điểm của Lý Quang Diệu khuyên Việt
2.2Sản xuất tư nhân
.Chính sách chấp nhận kinh tế tư nhân (gồm hai loại: hộ gia đình và công ty doanh nghiệp) đã ra đời từ Hiến pháp năm 1992 nhưng vẫn còn đang trải qua quá trình"giankhổ"trongthực hiện. Gian khổ bởi vì cách hiểu về chính sách còn chưa thống nhất trong lãnh đạo. Dự thảo Đại hội 8 (năm 1995) định nghĩa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, do đó đưa ra chỉ tiêu, kinh tế quốc doanh phải tạo ra 60% GDP.
Tranh luận trong Đảng đã bỏ được tiêu chí này, đưa đến quan điểm "lấy kinh tế nhà nước" làm chủ đạo. Kinh tế nhà nước được hiểu là bao gồm chính sách kinh tế nhà nước và dĩ nhiên là cả công ty quốc doanh, hoặc hiểu theo một nghĩa nào đó cũng được, nhưng đó đã là bước tiến mới về tư tưởng. Dự thảo Đại hội 9 (2001) định nghĩa kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là lấy "sở hữu công cộng (toàn dân và tập thể) làm nền tảng" và "kinh tế nhà nước làm chủ đạo." Một bước lùi về sở hữu? Vấn đề sở hữu sẽ được bàn ở một mục riêng trong bài này, nhưng cần thấy kinh tế tư nhân không thể phát triển nếu quan điểm về sở hữu không được giải quyết.
.Phát triển kinh tế hộ gia đình sau năm 1989 là lý do chính đưa tới sự thành công của công cuộc đổi mới, vì nó giúp cho việc cải cách quốc doanh mà không để xảy ra bất ổn xã hội. Cải cách quốc doanh, một cái thùng không đáy đòi hỏi bù lỗ từ ngân sách nhà nước, đã cho thôi việc gần một triệu lao động trong khi đó chính khu vực kinh tế hộ gia đình phi nông nghiệp đã tạo ra thêm 2,3 triệu việc làm trong thời gian 1985ư1995.Doanh nghiệp tư nhân (tức là công ty) vẫn không phát triển (chiếm 3,1% GDP năm 1993 và 3,4% năm 2000). Đó là vì quyền tự do kinh doanh cho đến mới đây không được thực sự công nhận. (Coi phân tích kinh tế tư nhân ở [1, 6].)
.Quyết định về đăng ký của Thủ Tướng đầu năm 2000 là một quyết định quan trọng nhằm tự do hoá quyền kinh doanh của dân chúng trên cơ sở: những gì luật pháp không cấm thì người dân được làm. Quyết định này được mệnh danh là xoá bỏ quan hệ "xin cho." Cho đến mới đây, dân phải xin được nhiều giấy phép của rất nhiều cửa công quyền với đủ mọi điều kiện khó khăn trước khi được giấy phép kinh doanh. Dân được quyền xin, và chính quyền được quyền cho. Hệ thống trên tạo ra hối lộ và kìm kẹp phát triển. Quyết định về đăng ký này tách việc xin giấy kinh doanh ra khỏi trách nhiệm kiểm tra của nhà nước về điều kiện cần có để kinh doanh như biện pháp bảo vệ môi trường hay chứng nhận chuyên môn trong một số ngành như chữa bệnh, cố vấn pháp luật, xây dựng, kiểm toán, v.v. Giấy phép kinh doanh là chứng nhận công ty đã đăng ký hoạt động. Chỉ với quyết định trên, đã có 7.664 doanh nghiệp đăng ký với số vốn 7 ngàn tỷ, gấp ba số doanh nghiệp đăng ký cùng kỳ năm 1999 và 1,7 lần về vốn. (Thời Báo Kinh tế SàiGòn, số 36-2000,
.Nền kinh tế tư nhân không giải quyết được nạn hối lộ công quyền nhằm tránh áp dụng các qui định nhà nước đặt ra mà cần thêm các yếu tố khác trong đó có nền tư pháp minh bạch, hữu hiệu và các qui chế, qui định không có tính chất bóp nghẹt doanh nghiệp.Nhưng nền kinh tế tư nhân không tạo ra cơ hội cho tham nhũng của công mà doanhnghiệp nhà nước tạo ra vì tính chính của chung không ai khóc của doanh nghiệp nhà nước.
█3. Kinh tế thị trường
Kinh tế không phải là tất cả nhưng là hoạt động rất quan trọng của con người. Thể chế kinh tế hoạch định dựa vào kế hoạch tập trung do một nhóm người "sáng suốt" vạch ra, chẳng khác gì cả nước là một tổng công ty tư bản nhà nước, rõ ràng là làm thui chột tính sáng tạo vận động của những con người tự do, thành viên của xã hội. Nó không phải là con đường dẫn tới dân chủ, giầu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.. Ngày nay, thể chế kinh tế thị trường đã được chấp nhận. Vậy vai trò và giới hạn của kinh tế thị trường là gì? Kinh tế thị trường có phải là tự do hoàn toàn hay cần bàn tay của nhà nước?
Để tìm hiểu về nội dung kinh tế thị trường, có lẽ trước tiên cần tìm hiểu nó như là một mô hình toàn bích và trừu tượng rồi từ đó xét đến những biểu hiện thực tế của nó và những thể chế cần thiểt bảo đảm thị trường thực tế không đi quá xa thị trường lý tưởng. Những thể chế cần thiết này không phải là kết quả của các công trình nghiên cứu khoa bảng mà là kết quả của các cuộc đấu tranhđẫmmáugiữatưbảnvàthợthuyền,giữalýtưởngchủnghĩaxãhộikhôngtưởngvàchủ nghĩa tư bản tự do vô điều kiện.
3.1Thị trường cạnh tranh hoàn hảo[7]
Mô hình lý thuyết trừu tượng và toàn bích là mô hình kinh tế thị trường cạnh tranhhoànhảo(perfect competition). Nó là cơ chế trong đó các đơn vị tham gia, kể cả người bán và người mua, không ai kiểm soát được giá cả trên thị trường và họ có đầy đủ thông tin về thị trường không những cho hiện tại mà còn cho cả tương lai để làm quyết định tối ưu. Giá sản phẩm là cái có sẵn trên thị trường, do cung cầu định đoạt. Tìm một thí dụ cho loại thị trường này không đơn giản, ta có thể nghĩ đến thị trường lúa gạo, với hàng ngàn, hàng triệu nông dân sản xuất không thể tập hợp lại để cùng định giá, nhưng việc thu mua có thể lại tập trung vào hệ thống đầu nậu có khả năng quyết định giá.Khi không có hệ thống tập trung thu mua, thị trường lúa gạo đi gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Nói gần là vì không ai có đầy đủ thông tin về cả hiện tại lẫn tương lai, như thông tin về thời tiết chẳng hạn.
Trên thị trường các đơn vị sản xuất tính toán nhằm tối ưu hoá lợi nhuận bằng cách phối hợp vốn, kỹ thuật và phương tiện sản xuất, vật tư và lao động, còn người lao động sẽ quyết định một cách hợp lý nhất việc sử dụng lao động của mình để có lợi tức và lựa chọn hàng hoá tiêu dùng đạt thoả mãn cao nhất.Có thể chứng minh là hệ thống thị trường tự do này là cơ chế sử dụng hữu hiệu nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên và con người nhằm tạo ra của cải vì bất cứ một tác động điều tiết nào, dù không ảnh hưởng đến hiệu qủa làm ra của cải, cũng chỉ là sự phân phối lại: lợi của đơn vị này bù trừ thiệt của đơn vị khác. Các nhà kinh tế toán thuần lý đã chứng minh được là trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận (profit) bằng zero. Lý luận bình thường cũng cho thấy là nơi nào có lợi nhuận người sản xuất sẽ đổ xô vào, nếu như thị trường không độc quyền, cung do đó tăng so với cầu, giá sẽ giảm để cung cầu quân bình và lợi nhuận sẽ không còn.
Hiểu về kinh tế thị trường đòi hỏi ta hiểu rõ sự khác nhau giữa lãi (interest) và lợi nhuận (profit). Lãi như ta thấy trong bảng trên là một phần của thặng dư, sau khi đem doanh thu trừ đi chi phí sản xuất. Thặng dư dùng để trả lãi vốn vay mượn hoặc vốn tự bỏ ra (gọi là cổ tức) để đầu từ vào đất đai, nhà xưởng, vật tư và hàng hoá tồn kho cần cho sản xuất. Chỉ phần còn lại mới được coi là lợi nhuận.Nhưng như đã nói, khi nền kinh tế có cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận bằng không.
Gía hàng hoá
Trừ Chi phí sản xuất
•Hàng hoá và dịch vụ dùng trong sản xuất
•Lương bổng
•Thuế sảm xuất
•Khấu hao
Bằng Giá trị thặng dư
•Lãi
•Lợi nhuận
Marxcoi toàn bộ giá trị thặng dư kể cả lãi là bóc lột lao động. Nhưng với kinh tế thị trường thì lãi là cần thiết để khuyến khích dân chúng để dành, bỏ vốn mua cổ phiếu hoặc cho người sản xuất vay thông qua hệ thống ngân hàng. Nếu không có lãi, dân chúng sẽ không thấy có động cơ tiết kiệm và dù có tiết kiệm để đối phó với những khi rủi ro, họ không có lợi ích kinh tế khi cho người khác vay. Lãi suất là một hình thức giá của tiền vốn. Lãi suất trong các hoạt động kinh tế khác nhau do luật cung cầu chi phối sẽ ngang bằng khi thị trường đạt điểm tối ưu. Lãi như thế không thể coi là bóc lột. Chỉ khi nào lợi nhuận xuất hiện mới có thể coi là có bóc lột. Như vậy thị trường hoàn hảo có thể coi là không có bóc lột lao động.
3.2Thị trường thực tế
Dĩ nhiên trên thực tế, thị trường không hoàn hảo: lãi suất không ngang bằng, lợi nhuận không bằng zero, thậm chí còn có siêu lợi nhuận. Có những lý do sau để giải thích thực tế này:
•Mộtlà,thôngtinkhônghoànhảonhưlýthuyếtđãphảigiảđịnhdođótạorabấtổn (uncertainty) và may rủi (risk) trên thị trường. Vì rủi ro cao hơn, người đầu tư vào sản xuất hay thị trường cổ phiếu hy vọng có lãi lớn hơn lãi gửi ngân hàng.
•Hai là, do vai trò của sáng kiến, phát minh.Đơn vị sản xuất có sáng kiến và phát minh tăng năng suất có thể đạt được siêu lợi nhuận, nhưng về dài lâu, siêu lợi nhuận này sẽ mất đi vì các đơn vị sản xuất khác sẽ bị sức ép của cạnh tranh để hoặc bắt kịp hoặc phá sản.
Sự tồn tại của siêu lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy sáng kiến và phát minh làm tăng năng suất.Siêu lợi nhuận công ty Microsoft tạo ra từ phần mềm Windows dùng để điều hành máy tính cá nhân hiện nay có thể hiểu được khi sáng kiến của họ chưa có ai thay thế được.Nhưng cũng chính vì sợ cạnh tranh mà họ phải đều đặn giảm giá đồng thời tăng khả năng sử dụng vừa để mở rộng thị trường vừa để bảo vệ thị phần. Nếu như nhà nước quốc hữu hoá hoặc đánh thuế đặc biệt siêu lợi nhuận, chắc chắn phát triển của công nghệ thông tin sẽ không nhanh chóng như vừa qua.
Việc nhà nước Mỹ đang kiện Microsoft chỉ là nhằm chống các hành vi có tính cách độc quyền của công ty này như khi nó bắt các công ty phần cứng phải gài phần mềm duyệt Internet của nó vào, trong khi đã có sẵn trình duyệt Web khác trên thị trường.
•Balà,lýthuyếtthịtrường hoàn hảo đòihỏimộtthịtrường hoàn hảo, có một người hô giá (auctionner) để quân bình giữa cung của người bán và cầu của người mua và một hệ thống thể chế điều hành nó nhưthịtrường chứng khoán. Thi trường thực tế của một món hàng nào đó trong một nền kinh tế không có một người hô giá, nó bị xé lẻ, xảy ra ở nhiều nơi, và không hẳn cùng một lúc, do đó điều chỉnh giá cả chỉ có tính từ từ, tiệm cận và tùy thuộc vào khả năng cung cấp và lấy thông tin của các tác nhân kinh tế trên thị trường.
•Bốn là, thị trường thực tế ở bất cứ thời điểm nào đó, không cân bằng và không tối ưu do đó ta thấycódoanhnghiệpcólờilớnvàcódoanhnghiệplỗvốn.Lợinhuậnchínhlàmộttrong những dấu hiệu quan trọng hướng dẫn quyết định đầu tư của doanh nhân. Nó chỉ ra khu vực cần đầu tư thêm. Tuy vậy quyết định không chỉ dựa trên lợi nhuận hiện tại mà là lợi nhuận có thể có được trong tương lai. Quyết định do đó đòi hỏi sự phân tích về nhu cầu trong tương lai, về kỹ thuật, phản ứng có thể có của các tác nhân cạnh tranh, so sánh lợi thế tương đối và sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Vấn đề do đó của nhà nước không phải là nhìn siêu lợi nhuận để cho rằng cần xoá bỏ nó mà là đềràxoátlạixemthịtrườngcósiêulợinhuậnđócóphảilàthị trường có cạnh tranh thực sự không để có biện pháp chấn chỉnh hoặc phổ biến thông tin đó đến người dân để họ tự làm quyết định.
Thị trường gần nhất với thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường chứng khoán, nhưng chính thị trường chứng khoán đòi hỏi một thể chế do con người tự thiết chế một cách rất rõ ràng, không phải dựa vào bàn tay vô hình mà có bàn tay quyền lực của tập thể xã hội thông qua hội đồng kiểm soát chứng khoán và hệ thống luật pháp được thiết chế nhằm ngăn chặn và trừng phạt những người muốn khuynh đảo thị trường bằng cách họp nhau định giá, dùng báochítungtinthấtthiệt,lấy thôngtinthốngkênhànước trước khi đượccôngbố,v.v.vàthịtrườngnàycầnngười hô giá (auctionner). Dùng chữ gần nhất là vì lý thuyết thị trường cạnh tranh hoàn hảo giả định là mọi đơn vị tham gia thị trường đều có thông tin hoàn hảo về thị trường, nhưng giả định này không có thực.
Thông tin không hoàn hảo có khi đưa đến hành động đàn lũ, thị trường chứng khoán trồi sụt lớn và bất ngờ đòi hỏi sự can thiệp nhất định của nhà nước như quyết định tạm dừng buôn bán xảy ra năm 1987 ở Mỹ. Thị trường nếu không có thể chế tạo ra bảo đảm tự do cạnh tranh tất sẽ dẫn đến độc quyền như lịch sử đã chứng minh.
Sauđâylànhữngbiểuhiệncủathịtrường không hoàn hảo trên thực tếvànhữnggìnhà nước cần làm để bảo đảm thị trường thực tế tiến gần tới thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
Độc quyền: Độc quyền tất dẫn đến hạn chế cung, giá cao cho người tiêu dùng, và lợi nhuận siêu ngạchchocôngtyđộcquyền.Sựhiệndiệncủalợinhuậnchínhlàsựhiệndiệncủabóclộtlao động dù công ty thuộc nhà nước hay tư nhân. Nhà nước cần có luật chống độc quyền. Độc quyền có thể xảy ra một cách tự nhiên vì kết quả của kỹ thuật sản xuất, như trong sản xuất điện, nước, v.v.Nói là kỹ thuật vì nó đòi hỏi vốn rất lớn, sản xuất càng nhiều giá càng rẻ và lại không có mặt hàng khác có thể thay thế. Nhà nước cần có chính sách kiểm soát giá với các loại độc quyền này.
Sản phẩm có ảnh hưởng ngoại vi (externality): Được gọi là có ảnh hưởng ngoại vi khi người sản xuất không phải trả toàn bộ chi phí sản xuất (ngoại vi xấu) hoặc người mua trả giá thấp hơn giá thực của hàng hoá (ngoại vi tốt). Nếu để tự do, người sản xuất có thể tạo ra ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến người sống chung quanh. Chính vì vậy cần có nhà nước kiểm tra bắt buộc nhà sản xuất không được gây ô nhiễm và phải trả giá cho hành động của họ. Trong rất nhiều trường hợp, không thể và không kinh tế thu phí người sử dụng đường xá, cầu cống, do đó nhà nướclà người đứng ra làm thay và thu thuế để chi trả. Giáo dục cơ sở và y tế công cộng cũng vậy, nếu lấy giá đủ chi phí thì nhiều người không có khả năng trả trong khi đó giáo dục và y tế công cộng tạo ra lợi ích chung cho xã hội nhiều hơn chi phí phải bỏ ra, do đó cần có vai trò của nhà nước làm thay.
Thông tin[5,9]:Bất ổn và rủi ro hiện diện vì thông tin không hoàn hảo, do đó lợi nhuận xuất hiện.Nắmhoặckhuynhđảođượcthôngtinsẽtạoralợinhuận,tứclàtạorabóclộtlaođộng. Nhưng thông tin hoàn hảo là điềukiệncầnthiếtđểthịtrườngtiếngầntớithịtrường cạnh tranh hoàn hảo, do đó cần vai trò của nhà nước. Tổ chức một số thông tin cần thiết cho mọi người (hoặc để nắm thị trường hoặc để đánh giá chính sách của nhà nước) thành những chỉ số kinh tế, xã hội, môi trường rất tốn kém mà nếu để cá nhân, hoặc doanh nghiệp tự làm thì sẽ không có. Do đó cần có vai trò của nhà nước trong việc thu thập và phổ biến thông tin. Thông tin là quyền lực, người nàonắmđộcquyềnthôngtinvềvấnđềnàođó thì có thể khuynh đảo vấn đề đó, do đó những thông tin do nhà nước thu thập trừ khi liên quan đến an ninh quốc gia phải là thông tin công cộng mà ai cũng có thể có và được thông báo bình đẳng cho mọi người cùng một lúc. Người nắm quyền thường muốn nắm độc quyền thông tin, do đó cần có luật pháp về thông tin và trách nhiệm thu thập thông tin. Cho đến nay thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế ở Việt Nam vẫn còn được thu thập tùy chăng hay chớ, loại thông tin và mức độ chi tiết cần thu thập, cần công bố vẫn còn tùy thuộc vào cơ quan có trách nhiệm thu thập và công bố tùy tiện quyết định. Ngay dù Thủ tướng đã ra quyết định về công khai hoá ngân sách (1998), số liệu được Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thống kê công bố vẫn không biết nguồn thu từ đâu và có hơn 70% chi thường xuyên không biết đi đâu, tức là gần như không công bố [12]. Làm sao công dân biết và kiểm tra chính quyền? Thông tin về ngân hàng tiền tệ thì vẫn chưa bao giờ được công bố chính thức nhưng lại nộp cho IMF vàđược IMF công bố trên mạng của họ.Đã đến lúc quốc hội cần có luật quyết định về loại thông tin, chi tiết thông tin và ngày công bố đối với tất cả các cơ quan nhà nước, đặc biệt là Tổng cục Thống kê.
Công nghệ thông tin mới (máy tính, internet, điện thoại cơ số và di động) đã tạo ra bước nhảy vọt về khả năng nắm bắt thông tin thị trường, truyền thông tri thức, và hợp tác vượt ngoài biên giới quốc gia với giá ngày càng rẻ. Muốn đẩy mạnh khu vực này phục vụ giáo dục, đời sống của nhân dân và kinh doanh, nhà nước không thể tiếp tục chính sách độc quyền định giá điện thoại quá cao và kiểm soát thông tin như hiện nay.
Khi sản xuất lớn là điều kiện để giảm giá thành tạo cạnh tranh trên thế giới:Khi sản xuất lớn là điều kiện để giảm giá thành, nâng khả năng cạnh tranh trên thế giới và ngay cả trên thị trường nội địa, chính quyền các nước đang phát triển cũng có thể có những biện pháp thích hợp như tự đứngraxâydựng(TrungQuốc,Pháp)hoặcgiúpxâydựngcáccôngtylớn(NamTriềuTiên, Nhật). Vấn đề là bảo đảm không có độc quyền. Sản xuất lớn với số lượng công ty không nhiều không nhất thiết tạo ra độc quyền nếu thị trường mở, đặt các công ty này trong tình trạng luôn bị đe doạ bởi sự ra đời của các công ty khác. Tại sao có khi cần bàn tay nhà nước? Đó là vì nhiều ngành sản xuất cần vốn lớn, trong khi đó nền văn hoá sở tại không những không có thói quen làm việc chung để tạo nên các công ty cổ phần lớn mà còn đòi hỏi chia nhỏ của cải cho con cái khi người sáng lập mất đi (việc này xảy ở các nước ảnh hưởng mạnh của Khổng giáo như Trung Quốc,
Triều Tiên, Việt
Những khiếm khuyết của thị trường như trên đòi hỏi trách nhiệm của nhà nước. Nhưng cao hơn thế, thị trường không nhất thiết đưa đến toàn dụng lao động, không giải quyết được những bất công tự nhiên, những may rủi xảy ra trong cuộc sống. Do đó chính quyền vì công lý và đồng thuận xã hội có trách nhiệm phân phối lại lợi tức thu nhập, thực hiện các chính sách nhằm ổn định nền kinh tế và xã hội.
█4Sở hữu[8]
Kinh tế tư nhân không thể phát triển nếu vấn đề sở hữu không được giải quyết thoả đáng.
Nói đến sở hữu cần phân loại hình vật sở hữu. Loại hình vật sở hữu gồm:
•Tài sản vật chất không do con người tạo ra (thiên nhiên và tài sản do thiên nhiên tạo ra
như: đất đai, bầu trời, rừng, biển, tài sản tự nhiên trên rừng, trong biển, dưới lòng đất);
•Tài sản vật chất và tài chính do sức lao động con người tạo ra (hàng hoá tiêu dùng, công cụ sản xuất, tiền, cổ phiếu, trái phiếu);
•Tài sản trí tuệ (kết hợp giữa lao động trí óc của người sáng tạo, kết qủa lao động trí tuệ
của loài người và của "trời" ban ư trí thông minh);
•Tài sản bản thân con người: sức khỏe, quyền tự do và trí tuệ.
Tự do kinh doanh là tự do sở hữu và sử dụng tài sản của mình làm ra bằng sức lao động tay chân và trí óc để làm tăng giá trị tài sản hiện một cách hợp pháp.
4.1Lý thuyết về sở hữu
Trongcácloạitàisảntrênchỉcótàisảnvậtchất không do con ngườitạoralàcá nhân không có lý do biện minh cho quyền tư hữu, do đó về nguyên tắc có thể coi là của chung, và trên bình diện toàn cầu không thuộc về một nước nào, một xã hội nào mà thuộc về nhân loại. Nhưng trên thực tế để tránh chiến tranh, con người đã chấp nhận sự đã rồi về tư hữu đất đai và lãnh thổ kể cả khi chúng được chiếm hữu bằng bạo lực.
Các loại tài sản do con người tạo ra thuộc về sở hữu tư nhân. Người đầu tiên luận thuyết về sởhữulàJohnLocke(1632-1704).Ôngphảnbácluậncứmàvuachúaviệndẫnđểgiànhlấy quyền này khi cho rằng sở hữu bắt nguồn từ lao động thuộc về lao động và mục đích của chính quyền là bảo vệ quyền tự nhiên này. Marx tiếp tục luận thuyết của cải tạo ra từ lao động nhưng cho rằng trong xã hội tư bản, việc nắm giữ tư bản và tích tụ tư bản, sử dụng lao động của người khác để phát triển sản xuất là quá trình bóc lột thặng dư lao động của người khác. Do đó để xoá bỏ bóc lột, công hữu hoá là giải pháp. Bóc lột lao động để tích lũy là sự thật hiển nhiên thời Marx và hiện nay.
Nhưng như tác giả đã lập luận ở trên, bảo đảm nền kinh tế thị trường tiến gần tới cạnh tranh hoàn hảo cũng là biện pháp xoá bỏ bóc lột mà không đưa nền kinh tế đến trì trệ, thiếu hiệu quả. Bảo đảmnềnkinhtếtiếngầntớicạnhtranhhoànhảođòihỏivaitròtíchcựccủanhànướckhông những chống độc quyền trong sản xuất, trong thông tin mà còn chủ động làm những việc mà thị trường không làm được hoặc không làm được hữu hiệu như giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng vật chất, phân phối lại thu nhập để bảo vệ công lý cho những người bị thiệt thòi nhất trong xã hội. Sự can thiệp của nhà nước còn nới rộng sang các chính sách tài chính, tiền tệ, kể cả những biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường nhằm tạo sự ổn định vì lợi ích của xã hội.
Trong các loại tài sản, tài sản trí thức có một vai trò đặc biệt, không những vì nguồn gốc, vì cách định giá mà còn vì ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển xã hội. Tài sản trí thức có nguồn gốc từ lao động, nhưng không nhất thiết từ một người, và không nhất thiết từ một thời đại. Không ai có thể làm ra một sản phẩm trí thức hữu dụng nếu không dựa vào các phát minh về lý thuyết và thực dụng của nhiều người đi trước. Nhưng cho đến nay, vì lợi ích xã hội mà luật pháp các nước công nhận bằng sáng chế (patent), tác quyền (copyright) và nhãn hiệu (trademark).
•Bằng sáng chế và quyền sở hữu bằng sáng chế do luật pháp công nhận và giao cho người sáng chế ra nghệ thuật hữu dụng (useful art) mới, máy móc và dụng cụ mới, chất liệu mới, cũng các hoàn thiện mới sau đó.Luật pháp các nước và quốc tế cho đến mới đây không cấp bằng sáng chế cho những định luật, phươngpháp,chấtliệu,thôngtincóthểlấytừthiênnhiênmàkhông thông qua tạo tác, pha chế. Chính vì vậy các nhà nghiên cứu không thể lấy bằng sáng chế khi tìm ra các chất liệu và các giống cây mới tìm thấy trong thiên nhiên. Họ cũng không thể lấy bằng sáng chế cho các định luật khoa học, các định luật toán học, vật lý, hoá học, hay cách giải toán. Ngoài ra do mục đích của việc bảo vệ quyền sáng chế là khuyến khích sáng tạo ứng dụng, luật pháp đòi hỏi công bố nội dung của bằng sáng chế nhằm mục đích phát huy sáng tạo của người khác. Nhà vật lý và toán học
về bất cứ khám phá và ý tưởng nào của ông ta. Einstein cũng vậy. Người đặt nền tảng cho sự phát triển của máy tính điện tử hiện nay là nhà toán học Von Neumann cũng không thể lấy bằng sáng chế về ý tưởng viết chữ, số, âm thanh thành các con số nhị phân (0,1) được biểu hiện bằng động tác mở, đóng để truyền lệnh cho máy tính, lúc đầu tiên thông qua các bóng đèn bật lên hoặc tắt đi.
•Tác quyền và quyền làm hay không làm bản sao đối với các công trình sáng tạo bao gồm các công trình văn chương, kịch, âm nhạc, nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc), phim ảnh và các công trình trí thức khác được xuất bản hay chưa xuất bản.Ngoài giá trị kinh tế, đây còn thể hiện nguyên tắcbảovệcátính(personality)haynhânquyềncủabảnthânngười sáng tạo, do đó không cho phép người khác sữa chữa hoặc công bố các công trình sáng tạo nếu không có sự đồng tình của tác giả.Tác quyền theo luật quốc tế hiện nay không công nhận tác quyền về ý tưởng (idea, concept) haychủđềviết(subjectmatterofwriting)màchỉcôngnhậncáchdiễnđạtýtưởng (form of expression). Các tác giả có thể diễn đạt cùng một ý tưởng của tác giả trước họ bằng một cách khác
mà không xâm phạm tác quyền. Vì vậy mà ta thấy tác giả ý tưởng cơ bản của phần mềm bảng tính điện tử theo hàng và cột (spreadsheet) không thể lấy bằng sáng chế hay lấy tác quyền về ý tưởng đó, mà chỉ có thể lấy tác quyền về phiên bản phần mềm. Người khác không thể tự ý làm bản sao phần mềm mà không được phép của người có bản quyền, tuy nhiên bất cứ ai cũng có toàn quyền tự làm phần mềm tương tự nhưng với nhãn hiệu khác. Đó là lý do ta thấy có spreadsheet của Lotus ra đời cạnh tranh với các phần mềm tương tự của các công ty trước nó, và mới đây là Excel ra đời cạnh tranh và gần đi đến chỗ tiêu diệt Lotus. Hai phần mềm này không khác nhau về ý tưởng cũng như khả năng giải quyết vấn đề.
•Nhãn hiệu là chữ, tên, dấu hiệu dùng trong thương mại để ghi dấu nguồn gốc hàng hoá và dịch vụ và để phân biệt chúng với các hàng hoá và dịch vụ khác. Nó giúp cho công ty bảo vệ chất lượng sản phẩm của mình mà không bị hàng giả cạnh tranh.Pháp luật các nước cũng cấm cả nhãn hiệu nháivớilýdolàcóthểlàmngườitiêudùnghiểulầm.Thídụcóngườinháinhãn hiệu McDonald (công ty làm đồ ăn nhanh) ở Mỹ để làm McBagel cho một loại bánh mì khác đã bị cấm.
Chỉ những gì hữu dụng mới được công nhận và được cấp bằng sáng chế. Do đó, bằng sáng chế ngày càng trở nên quan trọng trong lãnh vực công nghệ sinh học áp dụng vào nông nghiệp, y học điều trị và phòng chủng. Quyết định cấp bằng sáng chế năm 1790 ở Mỹ không dựa trên một lý thuyết nào cả mà chỉ vì một mục đích duy nhất là tạo động lực phát triển. Thời gian được bảo vệ cũng bị giới hạn về thời gian là 14 năm cho bằng sáng chế và 20 năm cho tác quyền. Nhãn hiệu dĩ nhiên có giá trị vĩnh viễn khi doanh nghiệp còn hoạt động.Từ năm 1976 đến nay và đặc biệt là khi toàn cầu hoá phát triển, bảo vệ sở hữu trí tuệ đã trở thành công cụ tạo độc quyền của các nước tiên tiến. Thời gian bảo vệ tác quyền của Mỹ và Liên Hiệp châu Âu tăng lên bằng cuộc đời tác giả cộng thêm với 70 năm và bằng sáng chế tăng lên bằng 20 năm. Luật châu Âu giữ bí mật nội dung bằng sáng chế. Mỹ cũng đang muốn thay đổi như thế1. Nhiều ý tưởng và những quan sát từ thiên nhiên cũng đã được chính quyền
Vấn đề quan trọng thứ hai sở hữu trí tuệ đặt ra là giá trị của nó. Rõ ràng là nguồn gốc của nó là từ lao động (hiện tại và quá khứ), nhưng giá trị của nó lại có thể không định được trong hiện tại nếu như thị trường chưa chấp nhận nó, và nếu được định trong hiện tại thì thời gian lao động bỏ ra để sản xuất nó có thể chỉ là yếu tố phụ. Điều này rất khác với các sản phẩm bình thường khác dù giá trị của nó vẫn là giá trị biên tạo ra thêm ra cho người sử dụng không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai khi nó trở thành "công cụ sản xuất vô hình."Lý luận của các thuyết về nguồn gốc lao động đã không đặt vấn đề này, nhất là khi nó được sử dụng là tài sản vô hình dùng trong sản xuất. Phải chăng người tạo ra nó được trả công, khi được các nhà sản xuất sử dụng nó để tạo ra sản phẩm nào đó, trở thành nhà tư bản "vô hình" bóc lột thặng dư lao động của công nhân làm ra sản phẩm? Vấn đề này cũng tương tự như vấn đề trả lãi cho người góp vốn hoặc cho vay vốn.
4.2Sở hữu ở Việt
Việt
Tài nguyên thiên nhiên không do con người tạo ra thường được các nước công nhận là tài sản chung. Đất đai là tài sản không do con người tạo ra cho nên về mặt nguyên tắc việc không tư hữu hoá nó có thể hiểu được. Tuy nhiên, đất đai tăng thêm giátrịkhicóbàntayconngườitác động đến, đặc biệt là đất nông, lâm nghiệp qua đầu tư, khai thác.
Người được giao đất đai nông nghiệphiệncóthểchothuê,chuyểnnhượng,thừakế,thếchấp,gópvốn(Luậtđấtđaihiệulực 11/2/2000), nhưng thời hạn đưoc giao bị hạn chế không quá 50 năm nên không thể hiểu là đồng nghĩa với vĩnh viễn. Điều này sẽ cản trở đầu tư cải tạo và sử dụng khi đất sắp đến thời kỳ hết hạn.
Có người cho là luật này cũng chỉ là luật của giai đoạn quá độ nên có thể coi là vĩnh viễn như luật đất nhà. Điều này không hẳn như thế vì việc giao đất công đặc biệt là ngắn hạn đã tạo những cuộc tranhchấpđấtđaiphổbiếnhiện nay. Nó cũng là lỗ hổng để những ngườicóchứcquyềnởđịa phương tham nhũng và áp bức dân chúng hiện nay (lấy lại đất và chuyển cho mục đích khác có lợi hơn). Hơn 70% những vụ kiện cáo mà chính quyền trung ương phải gửi đặc phái viên trung ương giải quyết hiện nay là liên quan đến đất đai. Tình trạng này sẽ nổ bùng khi đất tiến gần tới thời kỳ hết hạn.
4.3Sở hữu trí tuệ và toàn cầu hoá
Trítuệ cần thiết cho mọi nền kinhtế,từthượng cổ đến hiện đại, nhưng nền kinh tế mới đang thành hình sẽ chủ yếu là nền kinh tế trí tuệ. Các nước tiên tiến đều ý thức rất rõ về điều này.
Chính vì thế mà có sự chuyển biến lớn trong chiến lược phát triển về thương mại và kinh tế. Trong chiến lược này các nước tiên tiến nhằm nắm lấy và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua luật pháp quốcgiavàluậtquốctế,đặcbiệtlàthông qua các hiệp định quốctếcủaTổchứcThương mại Quốc tế (WTO) và Tổ chức Quốc tế về Sở hữu Trí tuệ (WIPO).
Thông thường việc phát động tố tụng trong vụ án đân sự thuộc về trách nhiệm của tư nhân. Thí dụ một công ty khi bị vi phạm hợp đồng thì chính công ty ấy phải khởi tố trước toà để nội vụ được giải quyết trước pháp luật. Nhưng WTO đã tạo ra một quan điểm hoàn toàn trái ngược. Các quốc gia phải thiết lập hệ thống theo dõi, kiểm tra và áp dụng luật pháp đối với người dân của mình vi phạm sở hữu trí tuệ của công ty nước ngoài, nếu không sẽ bị nước kia trừng phạt kinh tế theo đúng luật WTO. Theo một nghiên cứu, để tạo ra cơ chế thực hiện nhiệm vụ cảnh sát dùm này, một nước đang phát triển với dân số trung bình cũng phải tiêu tốn 150 triệu đô la2, đó là chưa kể chi phí thường xuyên hàng năm. WTO là sản phẩm của các nước lớn, và gần như không có sự đóng góp đáng kể của các nước đang phát triển. Dĩ nhiên các nước đang phát triển cũng được một số quyền
lợilàkhôngbịphânbiệtđốixửvàđượchưởngthuếnhậpkhẩuthấp.Tựdothươngmạilàbản thánh kinh của WTO, đòi hỏi các nước phi qui chế hoá (deregulation), không phân biệt đối xử giữa quốc doanh và tư nhân, giữa công ty nước ngoài và trong nước, tự do hoá đầu tư nước ngoài về mọi hoạt động kinh tế (ngoài những gì liên quan đến an ninh quốc gia). Tuy vậy lại có những ngoại trừ chỉ có lợi cho các nước tiên tiến, chẳng hạn không có tự do thương mại về nông nghiệp3, không có tự do về cung ứng lao động, những hoạt động mà các nước đang phát triển có lợi thế so sánh.
WTO rađờiđượcvàcólẽchỉrađờiđược(đàmphánthôngquavàonăm1993vàđivàothựchiện 12/1/1995) vì sự tan rã của Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa. Chính quyền Clinton mượnthế,tạothếlựcchoxuấtkhẩutừMỹvìsausựtanrãcủaLiênXô,Mỹkhôngcầnphải nhượng bộ để mua chuộc các nước khác. Khi khủng hoảng ở châu Á xảy ra năm 1997, Mỹ sử dụng một số định chế tài chính quốc tế làm áp lực đòi hỏi các nước này mở cửa toàn diện cho dòng chảy tư bản Mỹ, kể cả đòi hỏi Indonesia cắt ngân sách, bãi bỏ bù lỗ lúa gạo, đánh vào ngay đời sống của dân chúng lúc khó khăn cần trợ giúp, đưa đến sự sụp đổ của chính quyền Suharto và những bất ổn hiện nay [10, 11].
Nếu nhìn vào tình hình ở Mỹ ta thấy gì? (Âu châu cũng chẳng khác, nếu như ta thấy họ đã cho bằng sáng chế dữ kiện). Phải chăng đó là chiều hướng chủ nghĩa đế quốc kiểu mới? Vì họ có khả năng quan sát, thu thập dữ kiện về mọi mặt trên thế giới và vũ trụ, có tiền làm trước, họ có thể lấy bằng sáng chế về mọi hiện tượng tự nhiên trên thế giới? Và như vậy phải chăng họ có khả năng kiểmsoáttấtcả?Chiếnlược đế quốc kiểu mới đó đang hình thànhvàđangbịgiớitríthức(dĩ nhiêntríthứckhôngthểhiểulàngườicóbằngcấp)vàcáctổchứcxãhộicôngdânchốngđối.
Chiến lược đó phản lại sự tiến bộ của nhân loại và không thể tồn tại. Luật quốc tế và bảo vệ sản phẩm trí tuệ không thể để một vài nước tiên tiến quyết định rồi sau đó dồn vào họng các nước đang phát triển. Phải chăng toàn cầu hoá chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của thiểu số có khả năng làm chủ tri thức? Công bằng, bình đẳng, cônglý,quyềnsốngvà quyền mưu cầu hạnh phúc được ghi trong hiến pháp các nước tiên tiến không lẽ chỉ có giá trị cho công dân của họ chứ không cho con người nói chung?
Toàn cầu hoá như hiện nay là mở ra một thị trường quốc tế hoàn toàn tự do (laissezưfaire), một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, thiếu các thể chế ngăn chặn, giải quyết các tác hại mà thị trường mang lại. Toàn cầu hoá với thị trường tự do hoàn toàn này lấy lợi nhuận làm động cơ duy nhất. Các nhà tư bản toàn cầu vì lợi nhuận có thể làm sụp đổ một nền kinh tế, đưa con người chìm vào khốn khổ mà không cần có trách nhiệm ràng buộc hoặc một đạo lý nào hướng dẫn.
Để thăng tiến, các nước đang phát triển như Việt
Chỉ khi nào nền kinh tế tạo lập được thể chế mà thành viên sẵn sàng chấp nhận rủi ro đó và nhận được thành quả do việc chấp nhận rủi ro mang lại thì nền kinh tế đó mới có sức phát triển mạnh. Liên Xô trước đây có nhiều đóng góp quan trọng vào phát triển tri thức thuần lý. Tại sao họ lại thất bại ở tri thức thực dụng. Phải chăng họ không có hệ thống thể chế cho phép chấp nhận rủi ro và hưởng thành quả từ nó?Hệ thống thể chế đó phải là nền kinh tế xây dựng trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, chống độc quyền. Thị trường đó hình thành và phát triển được nhờ vào khả năng huy động được ở mức cao nhất khả năng và tính năng động của mỗi cá nhân cộng thêm sự can thiệp của nhà nước ở mức độ cần thiết trong một hệ thống thể chế phù hợp và bảo đảm mọi thành viên hành động theo luật pháp.
1 Theo một bài điều tra dài về tác dụng của bằng sáng chế trên thị trường thuốc của báo New York Times (July 23, 2000), Luật Mỹ tăng bảo vệ từ 14 lên 20 năm và có thể cho phép gia hạn thêm 5 năm sau đó, mục đích là để khuyến khích đầu tư vào sáng chế và phát triển thuốc mới. Luật này cho phép người sáng chế độc quyền sản xuất và tự do định giá trong thời gian được bảo vệ. Luật ở
2 J. Michael Finger, "The WTO's Special Burden on Less Developed countries", Cato Journal, Vol. 19, No. 3 (Winter 2000)
3 Những năm 50, để tranh thủ Mỹ tham gia vào cuộc đàm phán GATT, Mỹ đã được miễn áp dụng điều khoản hạn chế số lượng nhập khẩu nông sản (điều XI), chính vì thế việc áp dụng điều khoản này vẫn không được các nước thực hiện để tránh tình trạng phân biệt đối xử. Những năm 70, Âu châu do việc không áp dụng điều khoản này, đã trở thành các nước xuất khẩu nông sản, cạnh tranh với
Tác giả Vũ Quang Việt, Ph.d. kinh tế, New York University (1980), làm việc cho Liên Hợp Quốc từ 1984 đến nay, đã từng là thành viên Ban Tư vấn Thủ tướng Việt Nam, tư vấn hoặc làm cố vấn trưởng nhiều dự án giúp các nước xây dựng hệ thống tài khoản quốc gia và bảng I/O như Thái Lan, Trung Quốc, Mã Lai, Phi, Việt Nam, ấn Độ, Pakistan, v.v. Hiện là.chuyên viên cấp cao của LHQ, trưởng nhóm nghiên cứu về phương pháp luận thống kê kinh tế quốc gia. Đã tham gia uỷ ban quốc tế soạn thảo công trình chuẩn thế giới về hệ thống thống kê kinh tế System of National Accounts 1993. Đãcócácxuấtbảnphẩmchínhsau:StudyofInputưOutputTables1970-80(LHQ,1987),
HandbookofInputưOutputTableCompilation and Analysis (LHQ, 2000), Handbook of Links
Between Business Accounting and National Accounting (LHQ, 2000), hai quyển sau đã được dịch ra 5 thứ tiếng. Sẽ xuất bản Integrated System of National Accounts: An Introduction (LHQ, 2001).
Ngoài ra tác giả cũng viết về kinh tế Việt
Tài Liệu Tham Khảo
Các bài của cùng tác giả dùng để viết bài này
1."Le dévelopment de l.économie vietnamienne de 1989 à 1995: une appoache institutionnelle,. L.économie Vietnamienne en Transition, Lé Facteurs de la Reussuite, Cuong Le Van et Jacques Mazier (eds.), L.Harmattan,
2."Economic Reform and the Development of the Private Sector in
3."Kinh tế nông thôn Việt
4."Vấn đề nông thôn qua kinh nghiệm trên thế giới." NCKT, tháng 10, 11, 1995, Hà Nội. In lại trong Kinh Tế Việt Nam trên Đường Phát Triển của Vũ Quang Việt, Nhà Xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh và Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 1997.
5."Công nghiệp hoá và kinhtế thông tin ư con đường của Việt
6."Tình hình phát triển kinh tế ở Việt
7."Tìm hiểu về nội dung thể chế trong kinh tế thị trường ở Việt
8."Cơ sở triết lý và kinh tế chính trị của sở hữu: ý nghĩa của sở hữu trí tuệ đối với nền kinh tế mới," 2000, chưa xuất bản, có thể đọc trên webpage: http://wright.edu/~tdung/newyork00.htm
9."Có thể nào đón đầu phát triển kinh tế tri thức bằng công nghệ thông tin? Phân tích kinh nghiệm kinh tế Mỹ." Diễn Đàn, số 100, 10.2000.
10. "Tìm hiểu thêm về khủng hoảng kinh tế ở châu Á vàgiải pháp của IMF.. Châu Á Từ Khủng Hoảng Nhìn Về Thế Kỷ 21, Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt, Nhà Xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh và Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 2000.
11. "Tự do hoá dòng chảy tư bản toàn diện . cácnước đang phát triển bị đe doạ?.Châu Á Từ Khủng Hoảng Nhìn Về Thế Kỷ 21, Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt, Nhà Xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh và Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 2000.
12. .Công khai hoá ngân sách nhà nước: một dấu hỏi?. Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, số 27, 7.2000.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc Hiếu“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương Hiệu