Truyền thông và khoa học

02:10 CH @ Thứ Sáu - 08 Tháng Tư, 2016

Tiến hành nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, xuất bản các công trình nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành… tưởng chừng như vậy các nhà nghiên cứu đã hoàn thành xong nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, với những nhà khoa học mong muốn tạo nên một xã hội tri thức, vẫn còn một công việc nữa: công bố các công trình nghiên cứu của mình với công chúng. Nhiệm vụ này đòi hỏi những kỹ năng mà nhà nghiên cứu phải trau dồi những nó cũng mang lại những lợi ích và những niềm vui cho chính bản thân họ.

Carl Sagan đã thành công trong việc thay đổi nhữngđịnh kiến dành cho những nhà khoa học mong muốn chia sẻ thông tin với công chúng

Vào năm 1992, nhà thiên văn học Carl Sagan, tác giả của 20 cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhân vật chính của hàng loại chương trình truyền hình, những buổi nói chuyện với công chúng, bị từ chối trở thành thành viên của Viện Hàn lâm khoa học. Là giám đốc của phòng thí nghiêm nghiên cứu hành tinh tại trường đại học Cornell, Sagan nổi tiếng nhờ các công trình tính toán tác động của hiệu ứng nhà kính lên hành tinh Venus, nghiên cứu về bề mặt sao Hoả và các đại dương của hành tinh Titan. Tuy nhiên, nhiều đồng nghiệp của ông đã xem thường những nỗ lực công bố rộng rãi các thông tin khoa học của ông và đã từ chối bỏ phiếu tín nhiệm cho ông. Hai năm sau, Viện Hàn lâm khoa học xem xét lại việc xét duyệt thành viên và trao tặng cho ông Huân chương vì sự phát triển công động. Sagan đã thành công trong việc thay đổi định kiến dành cho những nhà khoa học quyết định chia sẻ thông tin với công chúng: thứ nhất là việc cho rằng các nhà khoa học sẽ sao nhãng công việc nghiên cứu của mình, thứ hai là các nhà khoa học không thể diễn đạt sáng tỏ quan điểm của chính họ bởi vì tư duy của họ khác với phần lớn người bình thường và do vậy họ cần những người phiên dịch.

Trong qua khứ, đã có những nhà khoa học quan tâm tới việc công bố rộng rãi công trình nghiên cứu của họ. Ví dụ điển hình phải kể tới Galileo, người mà nhà Thờ không bao giờ tha thứ cho hành động lựa chọn ngôn ngữ bình dân để viết các nghiên cứu của mình thay vì tiếng Latin ít người hiểu được. Vào thế kỷ 19, tại Anh, trong vòng 20 năm bắt đầu từ 1826, Micheal Faraday đã có những buổi diễn thuyết nói về những bước phát triển mới nhất của khoa học vào mỗi buổi sáng thứ 6 trong các bài giảng tại Viện Hoàng gia với rất nhiều người tham dự. Tuy nhiên, vào những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, sự hứng thú của các nhà khoa học dành cho việc phổ biến khoa học giảm sút đáng kể. Năm 1938, nhà khoa học Lancelot Hogben, vì sợ ảnh hưởng tới việc bổ nhiệm là thành viên của Hội hoàng gia Anh, đã nhờ đồng nghiệp của mình là Hyman Levy đứng tên trên cuốn sách “Mathematics for Million”, cuốn sách trở thành bestseller.

Micheal Faraday đã có những buổi diễn thuyết nói về những bước phát triển mới nhất của khoa học vào mỗi buổi sáng thứ 6 trong các bài giảng tại Viện Hoàng gia với rất nhiều người tham dự

Bắt đầu từ những năm 1980, giới khoa học mới bắt đầu tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động quảng bá khoa học. Hiện nay, các Viện nghiên cứu như Hội Hoàng gia Anh, Viện hàn lâm khoa học Pháp, Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp Úc, Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ của khoa học đều mời các thành viên trình bày các công trình của họ. Công việc này không bị xem là phí thời gian mà đã trở thành một yêu cầu bắt buộc. Một vài Viện nghiên cứu như Quỹ khoa học quốc gia Mỹ, Uỷ ban nghiên cứu của Anh đã ban hành những quy định hướng dẫn việc phổ biến khoa học, nhiều nơi còn thành lập bộ phận báo chí và thuê nhân viên phụ trách truyền thông, khuyến khích các sáng kiến như các trang web mục đích giáo dục, tài liệu, tổ chức các buổi nói chuyện khoa học.

Để trợ giúp các nhà nghiên cứu tương lai dễ dàng hơn trong việc tiếp xúc với công chúng, nhiều trường đại học tổ chức những khoá học nhỏ về các kỹ năng giao tiếp. Ví dụ như năm 1999, đại học Stanford khởi động chương trình I-RITE với mong muốn giúp các nghiên cứu sinh tiến sĩ và sau tiến sĩ có thể viết được những thông báo về các công trình nghiên cứu của họ một cách dễ hiểu cho công chúng. Những người tham gia chương trình I-RITE được tuyển chọn từ những nghiên cứu sinh tiến sĩ, sau tiến sĩ. Trong 6 tuần, một nhóm từ 6 tới 8 người gặp nhau mỗi tuần một giờ. Tại cuộc gặp mặt, những người tham gia sẽ có cơ hội trình bầy bản tóm tắt các công trình nghiên cứu của mình và nhận được sự góp ý về cấu trúc của bài trình bầy, sự mạch lạc, sử dụng các thuật ngữ khoa học và thậm chí là cả ngữ pháp, cách chấm câu. Họ cũng phải nhận xét về những bài tóm tắt nghiên cứu ở những lĩnh vực khác. Điều này giúp các nhà khoa học tương lai hiểu ra được tầm quan trọng của việc giải thích những nghiên cứu phức tạp bằng ngôn ngữ dễ hiểu.

Chris Turney - “Khi tôi gần kết thúc cuốn sách tôi mới nhận ra rằng công việc khó khăn nhất mới chỉ bắt đầu. Tôi cần phải giới thiệu nó với mọi người, giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của nó.”

Chris Turney tác giả của những bài báo về người hobbit nổi tiếng vào năm 2004 đã dùng phương pháp phóng xạ carbon để xác định tuổi của những hóa thạch tìm thấy ở Indonesia . Những hiểu lầm và sai sót trên báo chí đã khiến anh viết lời giới thiệu dễ hiểu hơn cho cuốn sách Bones, Rocks and Stars (Mcmillan 2006). Thành công của cuốn sách đã giúp anh có được những hợp đồng dịch sách, lời mời viết tiếp cuốn sách thứ hai về điều kiện khí hậu trong quá khứ, và những buổi xuất hiện trên truyền hình, những buổi diễn thuyết. Chris Turney đã học được gì từ mối quan hệ đôi khi không được cơm ngon canh ngọt giữa nhà khoa học với công chúng? “Khi tôi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, tôi không có ý định công bố rộng rãi các công trình nghiên cứu của mình. Tôi đã cho rằng các phương tiện truyền thông chỉ là công cụ dành cho người khác. Khám phá về người hobbit đã làm thay đổi hẳn quan niệm của tôi về vai trò của truyền thông trong khoa học. Khi tôi gần kết thúc cuốn sách tôi mới nhận ra rằng công việc khó khăn nhất mới chỉ bắt đầu. Tôi cần phải giới thiệu nó với mọi người, giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của nó. Khi tiếp xúc với công chúng tôi nhận ra mình đóng vai trò khác hẳn với vai trò thường ngày của tôi. Đột nhiên tôi thấy mình như đang cạnh tranh với những người nổi tiếng như Britney, Blair và Bush. Tôi phải làm cho nghiên cứu của mình trở nên dễ hiểu, có trọng tâm và tác động mạnh. Sự quan tâm của công chúng về người hobbit đã chỉ cho tôi thấy có nhiều con đường để tiếp cận họ: nói chuyện trước đám đông, viết cho các trang web trở thành niềm say mê mới của đôi. Tuy nhiên, điều này cũng đặt cho tôi câu hỏi: làm thế nào giữ được tính chân thực? Tôi quyết định cố gắng làm cho câu truyện trở nên đơn giản, loại bỏ những thuật ngữ khoa học.”

Bettencourt Dias: “Sự tương tác với giới truyền thông và công chúng giúp nhà khoa học rèn luyện kỹ năng giao tiếp, đặt nghiên cứu của họ vào viễn cảnh thực tế hơn, cung cấp những ý tưởng mới cho nghiên cứu”

Nhà sinh học phân tử người Bồ Đào Nha Bettencourt Dias cũng có mối quan tâm tới truyền thông trong khoa học trong thời gian học postdoc, cô đã theo học một khóa học về truyền thông khoa học tại đại học London. Tại đây cô đã được học về triết lý khoa học, cách thức hoạt động của các phương tiện truyền thông, có được những kiến thức về cách viết tin trên báo, sản xuất các chương trình phát thanh và truyền hình, phân tích các tình huống truyền thông trong khoa học. Với một vài người bạn khoa học, cô đã thành lập một tổ chức thúc đẩy phát triển truyền thông khoa học. Năm 2003, Bettencourt-Dias và tổ chức Comunicar Ciencia đã tổ chức hội thảo về truyền thông khoa học tại nhiều nơi, tổ chức những buổi thảo luận và hội nghị về vấn đề này tại Bồ Đào Nha và ở nước ngoài, phát triển cơ sở dữ liệu cho các nhà khoa học và nhà báo, đưa ra những quyển hướng dẫn cho các nhà khoa học về việc làm thế nào để làm việc với giới truyền thông và tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Cô cũng tham gia vào các sự kiện truyền thông khoa học trong nước. Hoạt động của cô cũng đã được báo giới Bồ Đào Nha ghi nhận: nhiều chương trình phát thanh và truyền hình đã đưa tin về tổ chức của cô. Bettencourt Dias quan tâm tới giao tiếp cộng đồng vì cô nhận thấy khoa học và công nghệ đã trở thành một phần trong cuộc sống của người dân. “Điều quan trọng là công chúng hiểu về những bước phát triển mới của khoa học và những khám phá mới này liên quan gì tới cuộc sống của họ. Họ cũng cần phải biết khoa học được tạo dựng lên như thế nào, rằng không có sự thật tuyệt đối, những kết luận của các nhà khoa học dựa trên đánh giá khách quan nguồn dữ liệu. Các nhà khoa học cũng được hưởng lợi từ hoạt động truyền thông. Sự tương tác với giới truyền thông và công chúng giúp họ rèn luyện kỹ năng giao tiếp, đặt nghiên cứu của họ vào viễn cảnh thực tế hơn, cung cấp những ý tưởng mới cho nghiên cứu, gặp gỡ những người cùng quan tâm tới khoa học, nhận được những khoản tài trợ nghiên cứu.”, Bettencourt Dias chia sẻ.

Lan Anh (Theo Science, Nurture)


5 phương pháp giúp nhà khoa học trẻ tiếp cận với công chúng:

  • Tham gia các buổi nói chuyện với công chúng. Khi nói chuyện thay vì dùng các phần mềm trình bày nên dùng các giai thoại, lối nói sinh động để thu hút sự chú ý của độc giả.
  • Có một website về khoa học phổ thông. Phần lớn trang web của các trường đại học đều khá khó hiểu với người bình thường. Phải giữ cho trang web của mình dễ hiểu và tươi vui.
  • Viết các thông cáo báo chí với những trích dẫn có thể dùng luôn cho các bài báo đưa tin.
  • Tiếp xúc với giới báo chí nói về những bước tiến mới nhất của khoa học.
  • Viết blog khoa học thường xuyên, nhờ vậy có thể thu hút được độc giả ngoại đạo và có cơ hội nói về những phát hiện mới nhất của khoa học.
Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Cần một bộ môn khoa học phối hợp nhận thức thực tại

    01/07/2018Nguyễn Tiến ĐạtMột số nhà khoa học đã có những nỗ lực nhằm xét lại vai trò khoa học, tôn giáo cùng mối quan hệ giữa chúng và họ quay ra thuyết phục công chúng về một viễn ảnh mà trong đó khoa học và tôn giáo có thể chung sức trong việc kiến tạo một đời sống tốt đẹp hơn với mục đích chung là phục vụ con người.
  • Quan hệ nhân quả trong khoa học

    16/01/2018Trần Văn ToànKhi nói đến quan hệ nhân quả có lẽ ít ai tưởng tượng được rằng đó là một vấn đề rất phức tạp. Phức tạp là vì nhiều lý do...
  • Có thể hợp nhất khoa học về con người với các khoa học tự nhiên?

    04/10/2016Hồ Sĩ Quý & Nguyễn Anh TuấnMối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và khoa học về con người được hiểu theo những cách khác nhau ở những thời kỳ khác nhau trong lịch sử nhận thức khoa học. Suốt từ thời này sang thời khác, những cuộc tranh luận gay cấn về vấn đề này liên tục diễn ra. Đến nay, tôi cho rằng, đối tượng của cuộc tranh luận đã có thể được hiểu theo cách mới...
  • Khách quan khoa học trong phê phán phản biện

    28/06/2016Hà YênSự phát hiện những công năng bí ẩn, những hiện tượng dị thường ở con người, được thông tin khá nhiều trong những năm gần đây, không còn là sự đồn đoán, mà là một thực tại đang hiện hữu không chỉ có ở nước ta. Dư luận xã hội phản ứng với hai thái cực : một bên cho rằng đó là một thực tại khoa học, mà lý thuyết khoa học, Vật lý học, hiện nay chưa thể vươn tới, Cần tổ chức khảo sát, trắc nghiệm khách quan và khuyến khích phát triển. Một bên thì coi đó là biến tướng của mê tín dị đoan, đòi phủ định tất cả.
  • “Chúng ta đều phụ thuộc vào nhau”

    17/06/2016Kim Yến thực hiện, chân dung hội hoạ Hoàng TườngTin giáo sư Trịnh Xuân Thuận, người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009 đã như ngọn gió lành làm nức lòng giới khoa học và tất cả độc giả đã từng yêu quý ông qua những tác phẩm viết về vũ trụ với cái nhìn tinh tế, giàu mỹ cảm, thấm đẫm tư tưởng triết lý của đạo học Phương Đông.
  • Khoa học phức hợp – khoa học của thế kỷ 21

    22/04/2016CC biên dịch“Tôi tin chắc rằng những quốc gia thiện dụng khoa học phức hợp sẽ trở thành những siêu cường về kinh tế, văn hóa và chính trị trong thế kỷ 21” . Phát biểu trên của Heinz R. Pagels tác giả cuốn sách – Mơ ước của lý trí: Máy tính và sự phát nguyên của khoa học phức hợp là một lời kêu gọi các nhà khoa học, công nghệ và các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu và triển khai khoa học phức hợp...
  • Tư duy khoa học

    27/10/2015Tư duy khoa học là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, được thực hiện thông qua một hệ thống các thao tác tư duy nhất định trong đầu óc của các nhà khoa học (hoặc những người đang sử dụng các tri thức khoa học và vận dụng đúng đắn những yêu cầu của tư duy khoa học) với sự giúp đỡ của một hệ thống “công cụ" tư duy khoa học nhằm "nhào nặn các tri thức tiền đề, xây dựng thành những tri thức khoa học mới...
  • Cách mạng khoa học - sự thay đổi khuôn mẫu (Paradigm)

    03/02/2015Đặng Mộng LânCuốn sách "The Structure of Scientific Revolutions” của Thomas S. Kuhn ra đời năm 1962 làm rõ bản chất của khái niệm “cách mạng khoa học" mà những cách hiểu trước đó chưa thể xem là thích hợp. Công trình này đã đưa ra một hình ảnh rõ ràng và đơn giản về sự phát triển của khoa học: Một khuôn mẫu (paradigm) (một cấu trúc cơ bản ổn định nảy sinh từ một số khám phá được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học) xuất hiện rồi bị thay thế bởi một khuôn mẫu mới...
  • Khoa học như một động lực thúc đẩy văn minh

    07/04/2014Đỗ Kiên CườngSự đóng góp của khoa học hiện đại đối với nền văn minh đương đại thể hiện rất đa dạng trên nhiều khía cạnh. Bài viết này đề cập tới ba vấn đề: vai trò của toán học và vật lý trong nhận thức luận, vai trò của cơ học lượng tử trong nền kinh tế và vai trò của di truyền học trong bài toán nguồn gốc loài người. Ngoài ra nó cũng đề cập tới một số tranh luận về mối tương quan giữa phương Đông và phương Tây, cũng như nguồn gốc người Hán và người Việt....
  • Cái nhìn đường hầm của khoa học

    01/08/2009M.Scott PeckĐôi khi các bác sĩ tâm bệnh gặp những bệnh nhân bị rối loạn thị giác rất lạ; những bệnh nhân này chỉ có thể thấy một vùng rất hạn hẹp ngay trước mặt họ. Họ không thể thấy bất cứ cái gì ở bên trái, hoặc bên phải, bên trên hoặc bên dưới cái tiêu điểm hạn hẹp của họ. Họ không thể thấy hai vật gần kề nhau đồng thời một lúc, họ chỉ có thể thấy một lúc một vật mà thôi và phải quay đầu nếu phải nhìn một vật khác. Người ta so sánh triệu chứng này với việc nhìn xuôi theo một đường hầm, chỉ có thể thấy một vòng tròn sáng rõ nhỏ ở cuối đường hầm.
  • Những nhịp điệu trong tự nhiên

    15/06/2009Thu San Nguyễn Thế HùngChương này, xuất phát từ nhịp điệu tích/tản của hòn đá, khái quát lên đến nhịp điệu tích/tản của con người và cuối cùng là của một tập hợp người. Tất nhiên, một tập hợp người chính là xã hội với muôn vàn vòng Ngũ hành, muôn vàn nhịp điệu tích/tản đan xen chồng chéo, vì vậy sẽ còn rất nhiều vấn đề có thể mang ra thảo luận.
  • Một số vấn đề về nguồn gốc loài người dưới ánh sáng của khoa học hiện đại

    08/04/2009TS. Hồ Bá ThâmKhi đọc được cuốn sách "Nguồn gốc loài người" của G.N Machusin do nhà xuất bản Mia ấn hành bằng tiếng Việt 1986, tôi thấy rằng, trong nhận thức của chúng ta về chủ đề này đang có chỗ rất lạc hậu và tác phẩm của Machusin thật sự mang lại một tri thức mới (Tất nhiên, xung quanh vấn đề nguồn gốc loài người vẫn đang có những khuynh hướng tìm kiếm, phát hiện, nhận thức còn khác nhau)...
  • Tận cùng của khoa học phải chăng là tâm thức

    14/02/2009Cao Minh ToànTâm thức và khoa học là hai phạm trù nghe có vẻ dường như phủ định nhau, nhưng sự phát triển của khoa học không làm mất đi sức ảnh hưởng của tâm thức đến con người, mà hơn thế nữa sự tận cùng của khoa học có lẽ lại chính là tâm thức.
  • Oppenheimer và Chu thực sự nói gì?

    19/11/2008Đỗ Kiên CườngNgười Việt chúng ta có một truyền thống quí báu là vô cùng tôn kính tổ tiên. Các truyền thuyết Rồng Tiên, mười tám đời vua Hùng, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, cùng những trang sử oanh liệt về Bạch Đằng, Chương Dương, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ… có lẽ đã thấm vào từng tế bào của mỗi con dân đất Việt. Vì thế chúng ta rất nhạy cảm với những thông tin về nguồn gốc con người và văn hóa Việt. Có lẽ đó là lý do Oppenheimer và Chu từng được cộng đồng người Việt, cả trong và ngoài nước, chào đón và thảo luận rất nồng nhiệt. Vậy Oppenheimer và Chu đã thực sự nói gì?
  • Phản thân trong Lịch sử

    12/11/2007SorosTôi đã diễn giải các thị trường tài chính như một quá trình lịch sử không thuận nghịch; vì thế diễn giải của tôi cũng phải có tính thoả đáng nào đó đối với lịch sử nói chung. Tôi đã phân các sự kiện thành hai loại: các sự kiện buồn tẻ thường nhật không gây ra một sự thay đổi về nhận thức, và các sự kiện lịch sử, duy nhất ảnh hưởng đến thiên kiến của người tham gia và, đến lượt nó, dẫn tới thay đổi về những cái căn bản
  • Những thiên tài của thế kỷ 21

    30/03/2007Hoàng An (theo Thế giới của những điều kỳ diệu)Ngày nay, mỗi phát hiện là một bước tiến. Nhưng kể cả khi nó nổi tiếng, thì nó cũng chỉ là một viên gạch trên bức tường cao. Những thiên tài như Einstein làm hơi khác: họ lấy ra từ bức tường cũ vài viên gạch, quan sát kỹ rồi xây dựng tòa nhà mới...
  • Một tập hợp khoa học đang hình thành

    06/11/2006Pierre LévyCác khoa học nhận thức đang ở trong pha bành trướng. Vượt quá ranh giới của khoa trí tuệ nhân tạo, tâm lý học, ngôn ngữ học và thần kinh học, chúng nhắm tới chinh phục các vùng đất mới, chủ yếu là sinh học và các khoa học xã hội...
  • Xã hội chính trị - quan niệm và những vấn đề đặt ra

    09/09/2006GS, TS. Hoàng Chí BảoNằm trong một tập hợp lớn các khoa học xã hội và nhân văn, xã hội học chính trị có vị trí và tầm quan trọng riêng của nó, góp phần vào việc nghiên cứu các vấn đề xã hội cũng như nghiên cứu phương diện xã hội của chính trị trong quá trình phát triển...
  • Phép phản biện trong khoa học

    07/09/2006Nguyễn Văn TuấnPhép biện chứng là phương cách tiến hành những thực nghiệm không phải để xác minh mà để phê phán các lý thuyết khoa học và có thể coi đây như là một nền tảng cho khoa học thực thụ. Nó đánh đổ những cách hiểu cố hữu đương thời cho rằng khoa học chỉ dựa trên phép quy nạp hợp lý và xác minh bằng thực nghiệm...
  • Các giới hạn khoa học

    09/01/2006Đặng Xuân Lạng (dịch)...tác giả bào chữa cho việc khoa học hoàn toàn không trả lời được các câu hỏi cuối cùng – Mọi vật đã bắt đầu ra sao? Chúng ta ở đây nhằm mục đích gì? Ý nghĩa của cuộc sống là gì?, những câu hỏi là vượt ra ngoài năng lực giải thích của khoa học. Dầu vậy, khoa học là một hoạt động vĩ đại và vinh quang – hoạt động thành công nhất từ xưa đến nay và mãi mãi về sau mà con người đã tham dự...
  • Godel và bản tính của chân lý toán học

    28/12/2005Nguyễn Tiến Văn dịch và giới thiệuĐây là cuộc trò chuyện giữa bà và tạp chí Edge ngày 6.8.2005 về việc đi tìm căn gốc của Định lí bất toàn trong toán học của Godel. Lí luận chân lí số học đúng nhưng không thể chứng minh hiện hữu trong lí luận thời cổ Hy Lạp của Epimenides. Định lí của Godel còn xuất phát từ sự chạm trán giữa các nhà lý luận thực chứng học ở Vienna (trong đó có Wittgenstein) với Gode trên lập trường triết học Platon...
  • Các giới hạn khoa học

    12/12/2005Jean Fourastié, Đặng Mộng Lân dịch... tác giả đã chỉ ra các giới hạn kinh điển trong đó nêu rõ phần lớn thực tại cảm quan bị tuột khỏi lập luận thực nghiệm (bản chất của sự vận động khoa học) trước khi chuyển sang “Suy nghĩ về các giới hạn khác”...
  • Các giới hạn của khoa học

    13/11/2005Trịnh Nguyên Huân (dịch)Wigner đã xuất phát từ sự tăng trưởng của khoa học để đi đến các giới hạn tự nhiên của khoa học mà nói cho đúng là khoa học “của chúng ta”. Các giới hạn đó, theo cách hiểu ấy về khoa học nằm trong trí tuệ của con người, trong khả năng ham thích và ham học của con người, trong ký ức và các phương tiện dùng cho sự giao lưu của con người, tất cả có liên quan đến một quãng đời nhất định của con người. Khoa học đó không thể tăng trưởng theo kiểu dịch chuyển một cách vô hạn với ngành mới sâu sắc hơn ngành cũ hay ít nhất cũng bao hàm ngành cũ, mà phải là một kiểu khác – sự dịch chuyển kiểu hai, kiểu dịch chuyển này có nghĩa là chúng ta không thể đạt đến sự hiểu biết đầy đủ cho dù là về thế giới vô tri vô giác.
  • Cách tiếp cận hệ thống trong vấn đề phân loại các khoa học và nghiên cứu khoa học

    10/11/2005Đỗ Thu Thủy dịchVấn đề phân loại tri thức khoa học như là một trong số những vấn đề quan trọng nhất trong phương pháp luận khoa học chiếm một vị trí đáng kể trong các công trình của A. Polikarov. Tác giả bài viết này rất lấy làm hân hạnh đã được cộng tác cùng A. Polikarov nghiên cứu vấn đề lớn này. Hy vọng bằng những nỗ lực chung sẽ đưa ra được những căn cứ mới để phân định, phù hợp với tinh thần của khoa học nửa sau thế kỷ XX...
  • xem toàn bộ