Tiếng Hà Nội hay nên... hiếm
Có nhà văn nữ viết trong một truyện ngắn của mình thế này: "Người Hà Nội phát âm âm xát nhẹ như tiếng gió thổi qua chiếc lá mỏng tang". Tuy nhiên, dường như tiếng Hà Nội lịch lãm đang rơi vào quy luật muôn đời: Hay nên... hiếm.
Nhẹ như gió thổi
Nói “nhẹ như gió thổi” là niềm tự hào của người Hà Nội. Tất cả những âm “nặng” dường như đều bị người Hà Nội bỏ qua. Âm xát s thành x, âm uốn lưỡi tr thành ch, r thành d và không có âm rung r - khác biệt lớn nhất trong ngữ âm Hà Nội.
Tiếng Hà Nội đã trở nên quen thuộc với trên 80 triệu dân. Sau khi đất nước thống nhất, giọng nói Hà Nội càng có điều kiện lan tỏa ảnh hưởng ra mọi miền Tổ quốc. Qua các buổi phát thanh và phát hình, cả nước đâu đâu cũng âm vang giọng nói của người Hà Nội. Có lẽ vì thế vấn đề hệ thống âm chuẩn (chính âm) của tiếng Việt đã được đưa ra bàn thảo nhiều lần, nhưng chưa ngã ngũ.
Nói “nhẹ như gió thổi” là niềm tự hào của người Hà Nội.
Có người đã hô hào, cần phải tạo ra một “cuộc vận động” nói tiếng Hà Nội! Có người đề xuất chọn giọng nói của Hà Nội làm hệ thống ngữ âm chuẩn mực. Lại có người đề nghị “một giải pháp quá độ” là chọn tiếng Hà Nội làm mẫu hình phát âm chung cho học sinh các tỉnh từ Thừa Thiên - Huế trở ra Bắc (từ Huế trở vào chọn tiếng Sài Gòn). Bằng chứng là, những người miền Trung ra Bắc lập nghiệp và sinh sống, sau một thời gian dài, giọng nói của họ đã dần biến đổi, nói pha phương ngữ Bắc một cách không ý thức và có khả năng “nhập hệ” ngữ âm Hà Nội.
Theo TS Chu thị Thanh Tâm (ĐH Ngoại ngữ), đã có một nghiên cứu từ 250 SV ngoại tỉnh học năm thứ nhất về tiếng Hà Nội. Tỉ lệ thích/ không thích/ vừa thích vừa không thích gần tương đương nhau. Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến không thích tiếng Hà Nội lại khẳng định tiếng Hà Nội chuẩn, thanh thoát, dễ nghe, hơi điệu nhưng hay và lịch sự. Như vậy, hầu hết đều công nhận tiếng Hà Nội hay, nhưng có học tiếng Hà Nội hay không thì đó lại là chuyện khác, thuộc về tâm lý, tính cách và chiều sâu văn hóa mỗi người.
Tìm ở đâu bây giờ?
Tuy nhiên, có một thực tế là theo PGS Tất Thắng, Hội Sân khấu Hà Nội, “bây giờ, người Hà Nội pha tạp đến mức không thể xác định họ là người ở đâu nữa. Nếu xác định đó là người Hà Nội gốc thì rõ ràng, con người Hà Nội gốc ấy, thật khó kiếm tìm. Người Hà Nội gốc chỉ cần nghe tiếng nói cũng biết và nhìn chung không nói tục. Trong các gia đình có truyền thống gia giáo, nói tục được coi là con nhà mất dạy. Thí dụ, để diễn đạt ý phủ định, người Hà Nội gốc ngay cả từ "không" cũng ít dùng. Còn từ "đếch" hoặc tục hơn nữa thì tuyệt đối không nói, bất luận trong trường hợp nào.
Tuy nhiên, hiện giờ người Hà Nội pha tạp đến mức không thể xác định họ là người ở đâu nữa.
Có thể thấy ở đường phố Hà Nội ngày nay xuất hiện không ít các từ "lở mày lở mặt", "Ba Vi có con bo vang"… Bên cạnh đó còn có những hiện tượng bất thường trong sử dụng ngôn ngữ. “Khái niệm” như "lũ thừa cơm thiếu muối", "phe đầu keo", "phe tóc ép"…, biến thể sai chính tả như: "oánh giá". Nói giảm, nói tránh như: "màn hình phẳng", "phê lòi mắt", hay "tĩ tã"...
Con gái Hà Nội gốc kiêng kỵ nói tục, mà nếu trót lỡ lời thì xấu hổ đến đỏ mặt. Còn ngày nay, các cô xinh đẹp nói tục đến nỗi, người nghe thì ngượng chứ “các nàng” thì không (dĩ nhiên, đây là các cô gái “phố” chứ dân phố cổ gốc ít có người nói tục như vậy).
Trong tiến trình đô thị hóa, người các địa phương đang sống áp đảo ở Hà Nội. Vậy, tiếng Hà Nội gốc đang được bảo lưu ở không gian địa lý nào? Theo TS Vũ Kim Bảng (Viện Ngôn ngữ học), câu trả lời là khu vực 36 phố phường. Rộng hơn là vùng đất được ba con sông bao bọc: sông Hồng, Tô Lịch, Kim Ngưu – lũy thành tự nhiên bảo vệ Thăng Long từ thời Lý Thái Tổ dời đô. Còn khu vực ngoại thành ổn định nhất sau mọi biến thiên của lịch sử là hai huyện Thanh Trì, Từ Liêm.
Nhà văn Tô Hoài giải thích đơn giản hơn: “Không nên xem ngang nhau tiếng bờ hồ Hoàn Kiếm hoặc chợ Đồng Xuân với tiếng vùng ngoại ô. Bởi nguồn gốc hình thành và tạo nên tiếng nói, giọng nói hai vùng này hoàn toàn khác nhau”. Và nhà văn coi tiếng bờ hồ Hoàn Kiếm là tiếng Hà Nội và tiếng ngoại ô là tiếng... các làng.
Có học giả chia tiếng Hà Nội làm 4 thời kỳ. Thăng Long thời Bắc thuộc, từ Lý Thái Tổ tới trước 1873 dùng chữ Hán, mà nói như GS Hoàng Tuệ thì “không còn là ngoại lai mà đã thành cổ truyền của dân mình rồi”. Từ 1873 - 1954, Hà Nội chịu ảnh hưởng của chính sách “Pháp hóa” và muốn đạt mục đích, người Pháp phải “phi Hán hóa” tới tận gốc rễ. Thế là ra đời chuyện gọi chồng là cậu, gọi vợ là mợ, gọi ba, mẹ theo cách của người Pháp. Giai đoạn 1954 - 1975, tiếng Hà Nội mất đi các từ con sen, thằng xe, cao lâu, cô đầu… và các từ cò, cẩm, thông ngôn, ký lục, cu li… được thay bằng công an, cảnh sát, phiên dịch, thư ký, công nhân. Và giờ đây, khi có sự tiếp xúc, giao lưu giữa các cộng đồng nói năng, bắt đầu xuất hiện các từ hết xảy, cặp bồ, cù lần, cha nội, dễ sợ, hết chịu nổi…
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáBàn về Nguyên khí, Dương khí & Âm khí
08/12/2009Nguyễn Tất Thịnh