Thực học

09:10 SA @ Thứ Năm - 28 Tháng Năm, 2015

Cả tiếng Nhật jitsugaku và tiếng Hàn sirhak đều có thể phiên ra âm Hán Việt là “thực học”. Đó là một phong trào tiền duy tân, tiền hiện đại hóa, và có thể nói nó đóng góp lớn vào công cuộc khai hóa và duy tân đất nước tại Nhật Bản và Triều Tiên vào thế kỷ 19.

Tại Nhật Bản, tư tưởng thực học gắn liền với tên tuổi Kaibara Ekken (1630-1714)Tasan (tức Chong Yagyong, 1762-1836) là nhà tư tưởng thực học lỗi lạc, có thể được xem là một trong những triết gia vĩ đại nhất trong lịch sử văn hóa và tư tưởng Hàn Quốc. Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) xứng đáng được so sánh cùng hai vĩ nhân Đông Á như những tư tưởng gia cố gắng thay thế cái học từ chương của Tống Nho Trung Quốc bằng những tri thức thực tế nhằm cải tạo xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Dĩ nhiên, tại Trung Quốc, Trần Lượng là người đầu tiên dám phản đối triết học Chu Hi, ông tổ của triết học Tống Nho, và đề cao cái học thực tế. Tại VN, trong quá khứ, Lê Quý Đôn và Hồ Quý Ly cũng từng phê phán Chu Hi, phê phán cái học không liên quan gì đến thực tiễn cuộc sống. Nhưng tất cả chỉ là những tiếng kêu trầm thống lẻ loi trong sa mạc.

Chỉ có Ekken, Tasan và Nguyễn Trường Tộ là phê phán toàn diện nhất, triệt để nhất lối học vụ cổ và đề ra những biện pháp thiết thực để chữa trị tận căn những khối ung thư đang tàn phá thân thể quặt quẹo của xã hội.

Kaibara Ekken: “Aristotle của Nhật Bản”

Trong lịch sử tư tưởng Nhật Bản, Kaibara Ekken là một trong ba triết gia sống vào đầu thời kỳ Mạc phủ Tokugawa dám mạnh dạn phê phán hệ tư tưởng của Chu Hi. Hai triết gia kia là Ito Jinsai (1627-1705)Yamaga Soko (1622-1685). Ngay từ thời đó sống trong một môi trường quan điểm triết học có sự gắn bó mật thiết với chính trị, Ekken đã nhấn mạnh những tư tưởng cơ bản sau đây:

1-Phương pháp học tập có hiệu quả nhất là kết hợp lý thuyết và thực tế.
2-Người quân tử phải có khả năng tiếp thu phê bình và sửa chữa sai lầm.

Khuynh hướng thực học của Ekken thể hiện trong việc nghiên cứu của ông. Ekken nghiên cứu không những cổ văn, kinh điển Nho gia, ông còn đọc cả ngôn ngữ học, thiên văn học, y học, sinh vật học, thực vật học, nông học, vệ sinh thực phẩm, luật học, toán học, âm nhạc và chiến thuật quân sự.

Nhà bác học người Đức Philip Franz von Siebold (1796 -1866) khi viếng thăm Nhật Bản vào thế kỷ 19 đã tìm hiểu và vô cùng thán phục các tác phẩm của Ekken, gọi ông là “Aristotle của Nhật Bản”. Ngay từ thế kỷ 17 Ekken đã nhấn mạnh giá trị của việc học là ích nước lợi dân, không phải là thảo luận những điều vô bổ.

Kiệt tác Yamato honzo (Cây cỏ Nhật Bản) của Ekken (xuất bản năm 1709) là công trình nghiên cứu thực vật học có giá trị khoa học đầu tiên tại Nhật Bản. Nhiều nhà khoa học phương Tây khi đến Nhật trong thời Minh Trị đã vô cùng kinh ngạc trước hiểu biết rất bác học của Ekken về thực vật. Một Nho gia mà lại quan tâm nghiên cứu khoa học như Ekken quả thật là một hiện tượng hết sức hiếm hoi trong toàn bộ nền văn minh Đông Á. Việc Nhật Bản trong thế kỷ 20 có nhiều giải Nobel khoa học chắc chắn không phải là chuyện ngẫu nhiên.

Tasan: thách đố Nho Học truyền thống

Cũng như tất cả những tư tưởng gia Triều Tiên (1692-1910) có quan hệ mật thiết với phong trào thực học (sirhak), Tasan thuộc giai cấp quan lại, ngay từ nhỏ đã phải học hành kinh điển Nho giáo rất kỹ, nhưng các biến cố chính trị xã hội đã thúc đẩy ông và nhiều Nho gia khác phải đánh giá lại một cách toàn diện các nguồn lực tư tưởng và chính trị hiện hành xem chúng có mang lại những kết quả tốt đẹp thực tế cho đất nước hay không. Phong trào này bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính:

1-Bất mãn với cái học lý thuyết bắt nguồn từ Trung Quốc, đặc biệt sau cuộc chiến tranh Nhâm Dần (1592, khi Nhật tấn công Triều Tiên) và cuộc xâm lăng của Mãn Châu.

2-Bất mãn với tinh thần bè phái tại cung đình đã ngăn cản không cho những người thật sự có khả năng tham gia việc điều hành quốc gia.

Khác với các nhà Nho ra rả tụng niệm kinh điển Nho giáo, Tasan tập trung nghiên cứu khảo sát những vấn đề kinh tế chính trị, nông nghiệp, hình luật, nhằm giảm nỗi khổ cho dân và đem lại sự thịnh vượng cho quốc gia. Hai kiệt tác tiêu biểu của Tasan là Mongmin simso (Mục dân tâm thư: những điều tâm huyết về vấn đề cai trị nhân dân) và Hum hum sinso (Khâm khâm tân thư: luận văn mới về hệ thống luật pháp). Tasan đã bị lưu đày 18 năm khi chính quyền Triều Tiên ra lệnh bức hại đạo Công giáo vào năm 1801.

Nguyễn Trường Tộ: nhà thực học đầu tiên của VN

Trong số các di cảo của mình, Nguyễn Trường Tộ đã viết một bài có cái tựa rất rõ là “Về cái học thực dụng” (di thảo số 18, theo Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo, nhà xuất bản TP.HCM, 2002). Dĩ nhiên, tư tưởng thực học chan hòa toàn bộ trong các tác phẩm của ông nhưng chỉ cần đọc bài này chúng ta cũng thấy được phần cốt lõi trong tư tưởng của ông.

Trong Tế cấp bát điều (điều thứ tư) Nguyễn Trường Tộ lên án gay gắt lối học từ chương khoa cử dưới triều Nguyễn: “Ngày nay lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịnh, binh, hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ.

Lúc nhỏ học nào thiên văn, địa lý, chính trị, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì lại dùng đến địa lý, thiên văn, chính trị, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn […] Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng có nước nào có nền học thuật như vậy […] Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái đản, không thể hiểu nổi”.

Về quan hệ với phương Tây, Nguyễn Trường Tộ, cũng giống như Ekken và Tasan, chủ trương mở cửa làm ăn buôn bán với họ và đặc biệt phải tích cực học hỏi khoa học kỹ thuật của người phương Tây. Đó là lối thoát duy nhất ra khỏi con đường học vấn sáo mòn nô lệ vào Trung Hoa. Không đi sâu vào chi tiết chúng ta có thể thấy ngay ba tư tưởng gia này đều thống nhất ở một điểm: một nền học vấn có giá trị thật sự là một nền học vấn đem lại sự phát triển cho đất nước, làm xã hội phồn vinh, đời sống vật chất được nâng cao.

Sự đả kích nền giáo dục cũ của họ, ngày nay nhìn lại, có chỗ hơi quá đà, thậm chí thiển cận. Nho giáo không phải là một triết học hoàn toàn xa rời thực tế: Khổng Tử là một trong những con người thực tế nhất thế giới. Các vương triều Đông Á đã lợi dụng tư tưởng của ông, chế định hóa thành những bài thi mang tính giáo điều cứng nhắc, biến những tư tưởng có giá trị nhân văn muôn đời thành những công thức trống rỗng.

Nhưng trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong một tâm trạng đau lòng, phẫn nộ trước tình trạng lạc hậu của đất nước, Nguyễn Trường Tộ, Ekken và Tasan đã kiên quyết phê phán lối học dựa trên mô hình Trung Hoa một cách triệt để để nhắc nhở chính quyền và giới trí thức mau sớm tỉnh ngộ, không còn vênh váo tự mãn trong tháp ngà sách vở lạc hậu, và mau chóng hấp thu những kiến thức mới đến từ phương Tây để góp phần phú quốc cường binh.

Tiếc thay cả ba đều là những kẻ sĩ sinh bất phùng thời, tuy triều đình cũng có quan tâm lắng nghe, nhưng não trạng của cả một thời đại vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng quá mới lạ như thế. Nhật Bản phải đợi đến Minh Trị Duy Tân. Hàn Quốc sau nhiều thăng trầm lịch sử cũng chỉ cất cánh sau năm 1963.

Thực học: một nhu cầu của thời đại

Thực học, trong phạm vi bài này, xin tạm định nghĩa: “học hành theo phương pháp khoa học hiện đại”. Đối với Ekken, Tasan và Nguyễn Trường Tộ, thực học có nghĩa là tiếp thu văn minh văn hóa phương Tây. Ngày nay khái niệm phương Tây, phương Đông đã trở nên khập khiễng, khó áp dụng. Trung Quốc cũng đã có Trương Lợi Vĩ. Nhật Bản đã có mấy nhà vật lý đoạt giải Nobel. Hàn Quốc mới công bố thành công trong việc nhân bản phôi người.

VN muốn thành công trong lĩnh vực giáo dục, xã hội, khoa học kỹ thuật, hoàn toàn có thể học hỏi từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, không nhất thiết phải học từ Mỹ hay châu Âu. Vấn đề chính là vấn đề phương pháp khoa học. Phải cần thay đổi những kiểu tư duy lạc hậu, sống bám vào thời bao cấp với những đặc quyền đặc lợi. Tâm huyết và tinh thần Nguyễn Trường Tộ cần phải được phục hưng trong thế hệ trí thức hiện nay.

Không nói suông và hô hào trống rỗng, không làm việc theo chỉ tiêu cho có lệ, không chạy theo các thành tích giả tạo. Phải dành các ngân sách nghiên cứu khoa học cho các chuyên gia có khả năng. Cần lập ra một ủy ban giám định các công trình khoa học hoàn toàn độc lập với Nhà nước. Có lẽ đó là những bước đầu tiên, những điều kiện căn bản để tạo nên một phong trào thực học.

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Sự học ngày nay: Ít "bậc thầy" đúng nghĩa?

    12/11/2019Lại Nguyên ÂnGiữa tháng 1, nhà văn Lại Nguyên Ân gửi tới VietNamNet bài viết đưa ra "một cách lý giải về sự học và tình thầy trò ngày nay, cho rằng, khi mà học tập là một phần việc mà mỗi người phải theo đuổi suốt đời, khả năng “làm thầy” thiên hạ bao giờ cũng rất hạn hẹp...
  • Đầu tư học tập - đầu tư quan trọng nhất cho bản thân, đất nước

    10/10/2018Khiết Hưng - Hương GiangĐiều quan trọng nhất mà tôi muốn nhắn gửi các bạn là phải đầu tư vào việc học tập của mình. Những việc làm lý thú, đem lại nhiều tiền, giúp cải thiện thế giới, cải thiện cuộc sống của các bạn... đều đòi hỏi rất nhiều từ việc học tập...
  • Tâm đàm về cái Sự học, Tri thức và Trí thức

    01/05/2018Nguyễn Tất ThịnhNgày xưa, người có trình độ như ông Giáo Thứ (trong Sống Mòn của Nam Cao) có thể được xem là Trí thức. Nói chúng họ có vẻ như là người học rộng biết nhiều, và có trình độ được đào tạo cao hơn mặt bằng chung, thuộc tầng lớp được xã hội gọi là ‘Thày’, như Thày Giáo, Thày cãi, Thày thuốc…
  • Bàn thêm về sự học

    18/01/2017Học là chuyện đương nhiên, là khát khao, mong ước của cuộc sống con người. Có nhiều câu châm ngôn tục ngữ răn dạy, nhắc nhở con người về sự học.
  • Bàn về chuyện tự học

    15/11/2016Trước hết, cần phải nói rằng, tự học là một chuyện vạn bất đắc dĩ, vì ai cũng biết câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên”. Một câu hoàn toàn đúng, đúng hơn là người ta tưởng rất nhiều.
  • Nghĩ về tự học

    21/07/2016Đại tá, NGƯT Nguyễn Xuân QuỳnhTrước kia ta có thể ỷ vào số lượng kiến thức do nhà trường trang bị để dùng trong 15-20 năm. Nhưng ngày nay chỉ sau vào năm một nửa số kiến thức cũ đã lỗi thời. Ai cũng thấy tự học là cần thiết nhưng nhiều người chưa có ý thức, chưa biết cách tự học tốt...
  • Giáo dục Mỹ: Học để biết…tự học

    01/07/2016Hoa LưCác nền giáo dục văn minh thường hướng theo cách dạy trong trường sao cho đứa trẻ học để ra đời biết cách tự học…
  • Nhiệt tình không cứu nổi sự dốt nát

    12/03/2016Trường GiangNgày xưa, sự dốt nát chủ yếu là kết quả của chính sách ngu dân của đế quốc Pháp, là kết quả tự nhiên của sự nghèo đói do chính sách bần cùng hóa của các tầng lớp thống trị.
  • Thói hư tật xấu của người Việt: Học dở, dốt thông, vội vã bắt chước

    23/05/2015Vương Trí NhànNhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ...
  • Tâm giao về sự học và Sự nghiệp lao động

    17/11/2014Nguyễn Tất ThịnhChúng ta hãy hình dung điều gì xảy ra nếu một đứa trẻ không được đi học? Lớn lên trở thành ai ? Có thể là một Doanh nhân? một Vị Tướng hay một Chính khách được không? Cũng như vậy đặt câu hỏi ngược lại rằng nếu một Doanh nhân, vị Tướng, hay Chính khách nếu không được học sẽ thực thi chức phận của mình như thế nào, chưa nói đến là tài giỏi?
  • Sự học & đại học

    18/09/2013Tô Vĩnh Hà (ĐH Khoa học Huế)Liệu Cổng trường Đại học có nhất thiết phải là Con đường Duy nhất? Đây là một câu hỏi không phải là quá khó để trả lời, nếu xét theo cách duy lý của cuộc đời, nhưng là câu hỏi cực khó với thân phận của con người.
  • Việt Nam cần các tư tưởng Khai sáng

    12/05/2012Nguyễn Trang NhungTrong những bước đường đưa nhân loại tới nền văn minh hiện tại, một trong những cột mốc quan trọng là phong trào khai sáng bắt nguồn từ Âu châu, mà khởi đầu tại Anh quốc vào cuối thế kỷ 17, và tiếp sau tại Pháp, Mỹ và Nhật Bản vào các thế kỷ 18, 19.
  • Tư tưởng, phong trào Khai Sáng là gì?

    09/10/2010Bùi Quang MinhPhong trào Khai sáng là phong trào bắt đầu thời thế kỷ 18 ở châu Âu, coi việc tuyên truyền, phổ biến các tư tưởng tiến bộ, nâng cao các chuẩn mực đạo đức và tri thức khoa học (chứ không phải tôn giáo, điều giáo điều có sẵn) là những phương tiện quan trọng để biến đổi cuộc sống xã hội, con người, làm cho nhân loại tiến bộ.
  • Cần cuộc cách mạng Khai Sáng của người Việt

    27/09/2010Bùi Quang MinhĐể ý nhiều bạn trẻ, trung niên, và cả bậc cao niên lảng tránh bàn luận việc lớn nhỏ của đất nước, dân tộc hay của chính họ, tôi nhận thấy nguyên nhân chung họ đưa ra là: “Ôi dào, rách việc, nghĩ nhiều thì cũng đến thế, việc khó để người khác lo”. Có phải họ lười suy nghĩ, hay là họ ích kỷ cá nhân, họ chưa đủ khả năng nhận thức đầy đủ về dân quyền và việc quốc gia hay là họ đang thờ ơ với vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của mình chăng? Họ chưa trưởng thành dù cho cơ thể và địa vị xã hội của họ đã lớn...
  • Sự học lấy bằng

    17/06/2009TS. Phạm Duy NghĩaNgười làm quan ở nước ta, xưa thì được tuyển mộ qua đường khoa cử (giỏi thơ ca và thuộc sách thánh hiền thì được đỗ đạt, làm quan), nay về cơ bản phải kinh qua ba kênh đào tạo chính: đào tạo về chuyên môn, đào tạo về chính trị và đào tạo về quản lý nhà nước...
  • Tri thức đột biến

    16/09/2008Hà Văn ThịnhBộ GDĐT vừa công bố tỉ lệ thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT lần hai là xấp xỉ 50%, tính chung cả hai lần thi là 86,57%. Trong đó, 15 địa phương có tỉ lệ đỗ tốt nghiệp THPT lần hai trên 90% - tính chung cả hai lần thi, cũng có 10 tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp trên 90% (!).
  • Đợt sóng Thứ ba

    25/02/2008GS. Nguyễn Hồng Phong (Viện sử học Việt Nam )Cuốn sách "Đợt sóng Thứ ba" (The Third Wave) do Viện Sử học Việt Nam tổ chức dịch và giới thiệu với bạn đọc là một cuốn sách có giá trị, rất nổi tiếng của nhà xã hội học và tương lai học Alvin Toffler. Để giúp bạn đọc rộng rãi thêm hứng thú để đọc tác phẩm, chúng tôi giới thiệu, nói đúng hơn là lược thuật tóm tắt những nội dung chính của tác phẩm...
  • “Cái nóc” và việc tránh cho “nhà dột từ nóc”

    05/10/2006Kiên ĐịnhNgười đứng đầu ngành quan trọng như cái nóc, chân lý này đã được khẳng định từ hàng ngàn năm nay. Ở các nước, việc chọn người đứng đầu được chuẩn bị một cách chu đáo, tổ chức bài bản và công khai. Từ việc phát hiện các nhân tố mới, tổ chức sàng lọc, bố trí vào các vị trí quan trọng để họ thể hiện mình đến việc chức tranh cử, bầu cử một cách bài bản dưới sự giám sát công khai của dân chúng và các phương tiện truyền thông...
  • Tự học như thế nào?

    31/10/2005"Tự học như thế nào” là một trong những tác phẩm mà N. A. Rubakin để lại cho chúng ta. Cuốn sách viết về vấn đề rất cần cho tất cả mọi người đặc biệt là thanh niên. Nhiệm vụ của thanh niên là phải phấn đấu học tập nâng cao kiến thúc của mình trong nhà trường, sau khi ra trường. Thanh niên có thể nghiên cứu phương pháp học tập do N. A. Rubakin đưa ra để áp đụng, nâng cao vốn kiến thức và trở thành người thực sự có văn hóa, có chuyên môn giỏi....
  • Từ học để biết đến học để biết làm

    14/02/2003Nền giáo dục đại học của Việt Nam muốn có hiệu quả thì phải có chương trình đào tạo có chất lượng ngày một cao, nhưng chất lượng này do ai đặt ra? Chúng ta thường quên là sản phẩm mà đại học đào tạo - nghĩa là số sinh viên theo học cấp đại học - không phải là để cho đại học sử dụng mà là để cho xã hội nói chung sử dụng. Thế mà đại học không hề để ý đến phản ứng của xã hội đối với sản phẩm mà mình đào tạo...
  • Biết tự học và biết sáng tạo

    12/02/2003Quang DươngQua những sáng tạo được thể hiện từ thời Thomas Edison đến thời Bill Gates, giới khoa học kỹ thuật ngày càng nhận thấy giữa trí sáng tạo và việc tự học có một mối liên hệ nhân quả. Tạp chí Science et Vie (Pháp) đã viết :"Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy được một tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự học cao hơn".
  • Điều cơ bản là phát huy nội lực tự học của người học

    10/02/2003Tôi đã đọc bài: "Giáo dục từ xa ở Việt Nam - Vấn đề và triển vọng", đăng trên Nhân Dân điện tử ngày 3-5-2000 của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn ở Đại học New South Wales, Sydney, Australia (xin đừng nhầm với Giáo sư Phạm Quang Tuấn). Điều đáng mừng là tôi thấy có nhiều điểm nhất trí với tác giả. Tuy nhiên vẫn có những điều vênh nhau.
  • xem toàn bộ