“Phi trí bất hưng”

03:58 CH @ Thứ Năm - 11 Tháng Tám, 2011

“Phi trí bất hưng”, điều ấy gắn liền với “phi nông bất ổn”, “phi công bấtphú”, “phi thương bất hoạt” là sựkhẳng định của Lê Quý Đôn khi bàn về quy luật thịnh suy của một quốc gia. Thậtra, đây là một sự đúc kết của nhiều bậc thức giả trên thế giới mà Lê Quý Đôn, bộóc uyên bác thuộc làu kinh sử, thông suốt cổ kim đã đặc biệt lưu ý nhằm đưa ralời khuyến cáo với hậu thế. Xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, triều đạinào biết quý trọng trí thức, quy tụ và phát huy được sức mạnh trí tuệ trong tầnglớp tinh hoa của dân tộc, triều đại ấy hưng thịnh. Ngược lại là suy vong. Chuyệnấy rõ mồn một.

Chẳng phải chỉ Lê QuýĐôn, trước đó ba thế kỷ, trong văn bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442) dựngtại “Văn Miếu” do Thân Nhân Trung biên soạn đã đưa ra một thông điệp thật thâmthúy : “...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnhmà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đếvương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻsĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”. Thôngđiệp ấy được xem như một lời răn dạy nghiêm cẩn của ông cha ta trong sự nghiệpdựng nước và giữ nước!

Vậy thì, hiện nay “nguyên khí” ấy “thịnh” hay “suy”? Câu hỏiấy không dễ trả lời! Nhưng dù dễ hay khó trả lời thì sự thịnh suy của một triềuđại tùy thuộc vào việc biết “vun trồngnguyên khí quốc gia” vẫn là quy luật muôn đời. Chỉ có điều, vận dụng quy luậtấy như thế nào thì tùy thuộc vào tầm nhìn và phẩm chất của những người gánh váctrọng trách cũng như việc xử lý mối quan hệ lợi ích trong các quyết sách.

Thì đó, việc công bố giáo dục là quốc sách hàng đầu đã đượcđưa ra rất sớm, song chất lượng thấp kém của hệ thống giáo dục nước ta so vớikhu vực và thế giới đang là một thực tế nhức nhối mà ai cũng thấy, và chính đâylà lý do rất cơ bản về sự chậm phát triển của đất nước. Một nỗi đau không chỉriêng ai về kết quả tuyển sinh ĐH và CĐ vừa công bố với hàng ngàn điểm 0 môn lịchsử, ấy vậy mà lịch sử là một nhân tố mà thiếu nó thì ý thức dân tộc không thể đứngvững được. Hoặc một ví dụ khác : với lợi thế của khí hậu nhiệt đới gió mùa vốnnổi tiếng là hoa quả thu hoạch được quanh năm, song hiện nay trên thị trường củata tràn lan hoa quả nhập khẩu từ nhiều nước. Vậy là nông sản với thương hiệu ViệtNamđã thua ngay trên sân nhà chứ chưa nói đến trên thị trường thế giới. Nguyênnhân có nhiều, song về cơ bản, cần tìm về trong khuyến cáo của Lê Quý Đôn.

Phi nông bất ổn”, quả đúng vậy, nhưng đời sống, cung cách làm ăn vànăng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp của ta hiện nay ra sao lại tùythuộc vào mối quan hệ giữa nhà nông với nhà khoa học, phải chăng đây là minh chứngcho nguyên lý “phi trí bất hưng”? Vấnđề hàm lượng chất xám quá thấp trong quá trình canh tác, nuôi trồng để cho ranhững sản phẩm nông nghiệp là một thực trạng đáng lo ngại. Cứ nhìn hàng tấn vảithiều vùng Lục Ngạn Bắc Giang phải đổ đi khi quá trình giao thương bị trục trặcbởi nhiều lý do cũng đủ thấy rõ điều này. Mà xuất khẩu sản phẩm thô với giá trịgia tăng thấp đâu chỉ ở nông nghiệp, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ cũng nằmtrong tình trạng ấy. Và nhìn chung trong nền kinh tế, nguồn lực huy động được trong nước và từ bên ngoài mấy năm qua rất cao,song hiệu quả kinh tế lại thấp kém với chỉ số ICOR (tỷ lệ nghịch với hiệu quả đầutư) tăng nhanh, lên mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là cao nhất trong khuvực. Vậy là, “trí” mà cụ Lê Quý Đônnói đến có liên hệ khăng khít với cả nông,công, thương! Một khi mà nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng tụt hậu thì khó mànói đến sự phát triển bền vững.

Thế mà theo thống kê của Bô LĐ-TB-XH, năm 2010,trong số 20,1 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có chứngchỉ đã được đào tạo trong và ngoài nước. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉđạt 3,79 điểm, xếp thứ 11 trên 12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB trongkhi Hàn Quốc là 6,91, Ấn Độ là 5,76, Malaysia là 4,91, Thái Lan là 4,94.[mặc dầu vậy, hiện nay hình như chưa có sản phẩm nông nghiệp nào của ta cạnhtranh được với Thái Lan ]. Có đến 44% các doanh nghiệp FDI phải tổ chức đào tạolại cho người lao động được tuyển dụng, vì thế, hàng năm các doanh nghiệp FDIphải tiêu tốn khoảng 8% tổng chi phí kinh doanh .

Cội nguồn của nguồnnhân lực lực thấp lại cần phải truy tìm sâu vào việc trọng dụng trí thức với sựthấu triệt nguyên lý “phi trí bất hưng”.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tự phê bình về chuyện này : “Nước nhà cần kiến thiết. Kiến thiết phải có nhân tài. Trong số 20 triệuđồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến,thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đótôi xin thừa nhận”. * Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ ChíMinh là người cảm nhận thấu đáo nhất khuyến cáo của Lê Quý Đôn!

Nhưng rồi sao? Theo thốngkê mới đây của Bộ GD-ĐT thì có tới 63% số cử nhân, kỹ sư sau khi tốt nghiệp ratrường bị thất nghiệp. Một chuyện thật mà cứ như đùa, sinh viên ra trường khôngcó việc làm đã mang tấm bằngĐại học của mình ra hiệu cầm đồ để lấy 1,5 triệu đồng! ** Dù sao thì câuchuyện “cười ra nước mắt” này cũng chỉ là một nét chấm phá trên toàn cảnh bứctranh. Sẽ thấu đáo hơn về điều này khi hiểu rằng, sinh viên với bản lĩnh, trithức và nhân cách của mình chính là lực lượng hùng hậu bổ sung vào đội ngũ tríthức của đất nước.

Phải lưu ý điều này vìcác cụ ta xưa từng cho rằng “Đại học làcái học để làm người lớn” [đại học giả đại nhân chi học giả]. Chả thế mà,ngay sau khi nhận giải Field thì người đầu tiên mà Giáo sư Ngô Bảo Châu gọi từ ẤnĐộ để báo tin chính là người thầy “đã có ảnhhưởng tới cách tiếp cận cuộc sống và hình thành nhân cách” của mình!

Trong bối cảnh của thờiđại mới, thời đại của nên văn minh trí tuệ , thì “cách tiếp cận cuộc sống” gắn làm một với sự “hình thành nhân cách” lại càng cực kỳ quan trọng. Nó được kế thừavà nâng lên một cung bậc mới phẩm cách của kẻ sĩ xưa kia. Chỉ xin dẫn ra đôinét trong chuyện không hiếm những “kẻ sĩ”treo ấn từ quan bởi nhiều lý do. Trong đó, cách ứng xử “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” ( được dùng thì ra làm việc,không được dùng thì lui về) thể hiện một nhân sinh quan, một thái độ sống. Quantrọng nhất của chuyện “xuất” và “xử” của kẻ sĩ gắn liền với thời cuộc “thiên hạ hữu đạo tắc hiện, thiên hạ vô đạo tắcẩn”, có đạo thì hiện, vô đạo thì ẩn. Vì sao? Vì “gặp lúc nước hữu đạo mà nghèo và hèn là đáng thẹn, gặp lúc nước vô đạomà giàu sang là đáng thẹn”. Bởi lẽ, theo Khổng tử thì “đạo không xa người”. Sách Trung dung chép : “đạo không thể giây phút nào lìa được, lìa được thì không phải là đạo”!Còn theo Mạnh tử, “đạo” có mối liên hệhữu cơ với “tâm” và “đức”. Tâm không tạo ra đức,nhưng vì để gặp được đạo thì phải có tâm, còn muốn hành đạo thì phải có đức. Chỉ trong hành động, thì tâm và đức mới có sự gắn kết với nhau.

Mà gắn kết được, vìtrong học thuyết về chữ tâm của Mạnh tử, bốn viên đá tảng xây nên lâu đài đạo đứclà nhân, nghĩa, lễ, trí mà ông gọi là“tứ đoan”: “lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng hổ thẹn là đầu mối của nghĩa,lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí”. Con đườngtừ đạo đến đức không bằng phẳng dễ dàng. Thông thường, để cho con người “hữu đạo” thì phải biết cách “giáo hóa”. Phải biết cách dạy cho ngườita hiểu. Vì thế, Khổng, Mạnh đều khuyên người ta coi trọng “giáo” hơn “chính”, đặt công việc “giáohóa” trên và trước công việc “chínhtrị”. Người đảm nhiệm công việc khó khăn đó, không ai khác, là “kẻ sĩ”. Đề cao kẻ sĩ là vì lý do đó.

Đương nhiên, còn rấtnhiều vấn đề của chuyện đề cao đó với nhiều dụng ý, nhiều động cơ khác nhau,thông qua lăng kính lợi và danh của nhiều đối tượng khai thác vaitrò của “kẻ sĩ”, song ý nghĩa chung nhất là nhằm nói lên bất cứ xã hội nào cũng phải cần đến kẻ sĩ. Ngạo ngược như Lưu Bangnhà Hán, đái vào mũ nhà Nho để biểu thị sự coi thường kẻ sĩ, thô bạo tuyên bố :“Bố mày ngồi trên lưng ngựa mà lấy đượcthiên hạ, đâu phải cần gì đến nhà Nho”. Thế nhưng rồi, để xác lập vẻ uynghiêm của ngôi thiên tử và trật tự ổn định của thể chế, Hán Cao Tổ cuối cùng rồiphải tôn Nho, chiêu mộ kẻ sĩ.

Vắn tắt nhắc lại đôi điều nói trên không phải là học đòi theo thói nhàNho : quay đầu về xưa, xem xưa hơn nay. Mà là để chỉ nói lên một điều, coi trọng người có học là một phươngchâm ứng xử xuyên suốt lịch sử, không chỉ riêng của dân tộc ta.

Phạm Văn Đồng từng nhắc lại luận điểm của Nguyễn Trãi “Nước ta là một nước văn hiến” để khẳng địnhlại cái chân lý bất biến : Điều đó cónghĩa là trọng học vấn, trọng nhân tài, vì đó là những của quý không gì thay thế được của một nước, một dân tộc. Cónó thì sẽ có tất cả, thiếu nó, thì cái còn lại còn gì là đáng giá”.*** Đây là một sự nhắc nhở : trọng trí thức là hằng sốxuyên lịch sử. Mọi biến số khác đều lấy cái “bất biến” đó làm cái trục quy chiếu để đoán định về mọi giá trị củacuộc sống con người. Nắm chắc cái “bất biến”đóđể ứng xử với bao nhiêu “vạn biến”khó lường của cuộc sống. Mở rộng cái hằng số xuyên lịch sử ấy, có người đã nêulên một ý rất hay : “Ai đánh thức khôngcho xã hội ngủ, người ấy là trí thức, bất kỳ họ là ai” [Cao Huy Thuần]****.

Nhắc lại những điều trên chỉ nhằm nối kết với cuộc sống hôm nay, để hiểurằng, sự hưng vong của một triều đại, một chính thể tùy thuộc vào việc có chiêutập, quy tụ được anh tài, hun đúc và gìn giữ “nguyên khí quốc gia”, nói cách khác đó là sự thăng hoa của “trí tuệ dân tộc” là điều mà bất cứ thểchế nào cũng phải thực hiện. Nói “trí tuệcủa dân tộc”, trước hết là phải nói đến bộphận tinh hoa của đất nước, những người biết hấp thu vào mình trí tuệ củathời đại, đồng thời cũng góp phần của dân tộc mình vào trí tuệ của thời đại..

Nói đến tinh hoa là nói đến những phẩm chất cơ bản, làm nên bản lĩnh,phẩm giá và danh dự của dân tộc, góp phần vào sức mạnh của dân tộc. Để cho bộphận tinh hoa ấy bừng nở, phát huy được tài năng, đáp ứng ngày càng cao nhữngđòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng và phát triển đất nước, phải biết thật sự tôntrọng trí thức và dám nghe những phản biện tâm huyết của họ về thời cuộc.

______________

* Hồ Chí Minh toàn tập.Tập4, NXBCTQG,1995, tr.166

** VietnamNet 27-10-2008.

*** Phạm Văn Đồng. “Văn Hóa và Đổi Mới”.

**** Dẫn lại theo Tô Văn trường

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Trí thức: bộ phận độc lập về trí tuệ của xã hội

    09/08/2019D. S. Likhachev (Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga) - Phạm Xuân Nguyên dịchTừ “trí thức” trong các thứ tiếng khác được coi là vay mượn từ tiếng Nga. Tôi muốn gọi trí thức là bộ phận độc lập về trí tuệ của xã hội. Đây không đơn giản là học vấn và những người có học làm việc trong lĩnh vực lao động trí óc. Sự độc lập trí tuệ là đặc điểm tối quan trọng của trí thức. Độc lập với các quyền lợi đảng phái, tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, thương mại và thậm chí đơn giản là công danh.
  • Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam

    14/10/2018Trần Ngọc VươngChúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay...
  • Để có lớp trí thức xứng đáng

    12/05/2018Hoàng TụyThời thế tạo anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã hội, là bản lĩnh, tài năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi trường giáo dục đương thời. Cho nên tôi rất tán thành hãy bắt đầu bằng vấn đề giáo dục để bàn chuyện xây dựng lớp trí thức mới.
  • Trí thức, lãnh đạo và cái dũng của phản biện

    14/06/2016Lê Vinh TriểnMột “không gian” rộng là thực sự cần thiết để trí thức có thể toàn tâm toàn ý thực hiện trọng trách của mình trước xã hội: phản biện để phát triển đất nước. Phản biện là một việc gắn liền, gần như song sinh với trí thức. Nếu không có phản biện thì không có trí thức thật sự. Đã là trí thức thì phải đã, đang và sẽ phản biện.
  • Vài nét về vai trò của trí thức - quan điểm từ châu Âu

    03/06/2016Trần Phương HoaLịch sử văn hóa văn minh châu Âu là lịch sử của những dòng chảy tư tưởng mà các chủ thể đã tạo ra các dòng chảy đó chính là những người có thể được gọi theo nhiều cách theo nghề nghiệp của họ - nhà khoa học, triết gia, nghệ sĩ, giáo viên, nhà báo v.v...và chung nhất với tên gọi còn nhiều tranh cãi „trí thức”. Một vài nét sơ lược về những đóng góp, vai trò và sứ mệnh của họ đối với xã hội châu Âu nói chung và văn hóa tư tưởng châu Âu nói riêng...
  • "Sĩ phu, trí thức thì không được hèn"

    16/03/2016Bùi Hoàng Tám (thực hiện)Nhân đầu xuân mới, bàn tròn xuân Kỷ Sửu của Đất Việt ghi lại những ý kiến của các nhà trí thức nổi tiếng Việt Nam bàn về sĩ phu, trí thức thời nay.
  • Xã hội cần những trí thức suy nghĩ độc lập

    01/02/2016Thượng Tùng thực hiệnTiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Phó Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, là một trong những chuyên gia trẻ được nhiều người biết. Anh là thành viên nhóm nghiên cứu của Trường Kennedy thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ), tham gia thực hiện bốn bài thảo luận chính sách theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, là “cánh chim báo bão” nhẫn nại với nhiều bài báo đề cập những giải pháp tháo gỡ khó khăn từ một số chính sách của Nhà nước.
  • Tản mạn về trí thức và trí giả

    31/01/2016Trương Xuân HươngTrong “Từ điển tiếng Việt” do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, GS Hoàng Phê chủ biên, hai từ “trí thức” và “trí giả” không có nghĩa khác nhau là mấy...
  • Trí thức và nhận thức pháp quyền

    30/10/2015B. A. Kistiakovski - Phạm Nguyên Trường dịch và chú thíchMột số người cho rằng pháp luật chỉ có giá trị tối thiểu về đạo đức, một số khác lại cho rằng cưỡng chế, nghĩa là bạo lực, là thành tố không thể tách rời của pháp luật. Nếu đúng là như thế thì chẳng có cơ sở nào để chê trách giới trí thức của chúng ta trong việc coi thường pháp quyền hết. Giới trí thức của chúng ta luôn hướng tới những lý tưởng tuyệt đối và trên đường đi của mình nó có thể bỏ qua cái giá trị thứ cấp này.
  • Không gian mới của trí thức

    25/09/2015Huy Đức - Mỹ Lệ lược thuậtNhà văn Nguyên Ngọc, Nhà sử học Dương Trung Quốc, Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, cùng với Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa đã gặp mặt đầu năm 2008 cùng Sài Gòn tiếp thị, để từ những sự kiện văn hóa diễn ra gần đây, nghĩ về vai trò của trí thức...
  • Trí thức Việt và hàng nghìn năm lề thói làng xã

    23/05/2015Lê Mỹ ÝNhà phê bình mĩ thuật Phan Cẩm Thượng là người ít nói. Ông ưa ngồi lặng lẽ trầm tư, ưa “lánh mình” về những nơi chốn thâm nghiêm, yên tĩnh như những cổ tự, đình miếu...nơi ông đã có nhiều năm gắn bó, nghiên cứu, khảo sát các di sản văn hoá cổ. Tư chất của người làm nghiên cứu văn hoá khiến nhiều tác phẩm của ông đi ra ngoài phạm vi nghiên cứu chuyên biệt về mĩ thuật cổ.
  • Bàn về tính chủ thể của giới trí thức ở các nước thế giới thứ ba

    12/03/2014Nguyễn Trần BạtGiới trí thức nào cũng là sản phẩm của một hệ thống kinh tế, hệ thống chính trị, hệ thống văn hoá và hệ thống giáo dục. Trong tiến trình phát triển của một dân tộc, giới trí thức có vai trò rất quan trọng...
  • Giáo dục, trí thức và nửa đường còn lại

    24/09/2012Ngô Tự Lập...việc xây dựng một đội ngũ trí thức, hay nói đúng hơn, việc biến đội ngũ nửa trí thức của chúng ta thành một đội ngũ trí thức thực thụ, đủ khả năng đảm đương vai trò đầu tàu của nó trong sự nghiệp phát triển của dân tộc, cũng chính là chặng đường còn lại của nền giáo dục dân tộc. Ðó là một nhiệm vụ cấp bách và to lớn, không chỉ đòi hỏi nhiều tiền của, thời gian và ý chí, mà còn cả những thay đổi triệt để trong quan niệm và phương pháp giáo dục.
  • Sĩ phu, trí thức nước nhà xưa và nay

    08/09/2013TS. Chu HảoKhông ai nâng cao được vai trò của trí thức nếu giới trí thức của chúng ta không tự khẳng định được mình! Không ai san sẻ trách nhiệm với trí thức được; chỉ có trí thức mới thi hành được thiên chức của mình; vinh quang và cay đắng gắn liền với thiên chức ấy cũng chỉ dành riêng cho giới trí thức mà thôi!
  • Đã là trí thức thật thì ai cũng dấn thân

    25/06/2011Kim YếnLà phó chủ nhiệm uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, hình ảnh của ông gắn liền với không khí nghị trường nóng bỏng. “Ông nghị phản biện nhiều nhất” là cái tên mà nhiều người đã yêu quý gọi ông...
  • Vì sao ít trí thức Việt kiều về nước làm việc?

    17/07/2010Nguyễn Quốc VọngViệt Nam có một lợi thế hơn hẳn so với các nước láng giềng là có khoảng gần 4 triệu người đang sinh sống khắp năm châu mà trong đó khoảng 300,000 người đã tốt nghiệp đại học và sau đại học. Trong số những trí thức Việt Nam này, có nhiều người là những nhà khoa học tên tuổi, chuyên gia đầu ngành hiện đang làm việc tại các đại học, viện nghiên cứu và công ty nổi tiếng ở Mỹ, Úc, Canada, Anh, Hà Lan, Nhật như các đại học Harvard, Standford, Yale, Tokyo, Sydney… các công ty Microsoft, Monsanto, Mitsubishi...
  • Doanh nhân, trí thức cần làm gì?

    20/04/2010Lê Hiếu DânDoanh nhân và trí thức luôn là những người đi đầu để người khác noi theo. Nhưng thực trạng hiện nay của xã hội ta thật khó có thể trở thành nền tảng cho một quốc gia phát triển như mong muốn...
  • Nói về trí thức, tại sao cứ phải thêm “đích thực”?

    28/08/2009Nguyễn Ngọc LanhThói háo danh đang phát triển tới mức kệch cỡm trong trí thức. Mà đây là lớp trí thức mới, vì nước ta đã nước XHCN từ nhiều thập kỷ nay. Dẫu vậy, trong bài tác giả vẫn dẫn ra những sự kiện xảy ra từ thời phong kiến. Điều này có lý, vì từ lâu trí thức ta đã bị nhận xét là có dáng dấp một ông quan văn – nghĩa là háo danh và “phò chính thống”. Vậy môi trường nào đã tạo ra và nuôi dưỡng cái dáng dấp quan văn này của của giới trí thức mới?
  • Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức

    30/07/2009N. A. Berdaev* - Phạm Nguyên Trường dịch và chú thíchTình hình trong lĩnh vực trí tuệ và các đại diện của nó, tức là tầng lớp trí thức, càng ngày càng trở thành nặng nề và nguy hiểm. Sự độc lập trong tư duy, tự do trong sáng tạo đang bị những phong trào đầy sức mạnh của thời đại chúng ta phủ nhận. Các thế hệ hiện nay và các lãnh tụ của chúng không công nhận vai trò định hướng của trí tuệ và tư duy. Trong lĩnh vực này thì thế kỷ của chúng ta khác xa với các thế kỷ XIX và XVIII. Những người trí thức, những người sáng tạo văn hóa tinh thần hiện nay cần phải thực hiện các đơn đặt hàng của đời sống, phải phụng sự các quyền lợi của xã hội và ước muốn bá quyền.
  • Tôn vinh trí tuệ và trí thức Việt

    09/07/2009LS Trương Trọng NghĩaVN là một quốc gia nhỏ nhưng đã lập nước và giữ nước thành công suốt hơn hai thiên niên kỷ, cho dù có lúc phải sống dưới ách nô dịch và dã tâm đồng hóa trong gần 1.000 năm Bắc thuộc.
  • Ông Võ Văn Kiệt tôn trọng chủ kiến của trí thức

    23/05/2009Vũ Quốc TuấnĐiều nổi bật trong Ông Võ Văn Kiệt là Ông thực sự tôn trọng trí thức, không chỉ trong suy nghĩ, trên lời nói mà trong thực tế đã mạnh dạn sử dụng, phát huy tài năng, trí tuệ của trí thức trong các tổ chức tư vấn độc lập cho lãnh đạo để đưa trí thức vào cuộc, gắn bó trực tiếp với lãnh đạo và cuộc sống.
  • Trí thức Việt Nam thời toàn cầu hóa: Tư duy, kỳ vọng và trách nhiệm

    01/01/2007Trần Hữu DũngNgười trí thức phải mạnh dạn hướng dẫn và gạn lọc (qua thuyết phục) các trào lưu văn hóa đại chúng. Song, cần nhấn mạnh, sự “hướng dẫn” này phải được vạch ra từ góc nhìn toàn cầu của chính người trí thức. Nó phải xuất phát từ một trình độ lý luận cao, đượm tính nhân bản, tôn trọng dị biệt. Nó không thể là một “phản xạ” có tính giáo điều, hoặc mù quáng bảo lưu những tư duy lỗi thời, không còn thích hợp với thế giới mới...
  • Hiền tài là nguyên khí Quốc gia

    13/12/2006Lê Hoài NamNgười hiền tài trước hết phải là người có trí thông minh và niềm khát vọng. Hai yếu tố đó giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại để theo đuổi đúng nghề nghiệp mà mình yêu thích. Người hiền tài thường biểu hiện sự đam mê đến cháy bỏng trong công việc, không sợ thất bại, biết cách chấp nhận sự rủi ro, tìm mọi phương cách làm cho công việc mang lại hiệu quả cao nhất...
  • Trí thức và chất lượng cuộc sống...

    12/12/2005Đặng Lam SơnCó người nói rằng: "Trí thức ở nước ta những năm gần đây chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của mình". Điều đó là đúng, nhưng...
  • xem toàn bộ