Minh triết Tam Giáo trong văn hóa Việt

04:07 CH @ Chủ Nhật - 28 Tháng Hai, 2016

Thời nào cũng vậy, nội lực mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và hoạt động xã hội, tinh thần tự xét mình và tự giác cao, bản lĩnh độc lập và tinh thần cầu thị trong sự xem xét và phán xét riêng, coi trọng dư luận của quần chúng nhưng không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận nào..., những đức tính này thường là được thiên hạ quý trọng, ở đâu cũng vậy thôi, là người hẳn hoi không thể thiếu những đức tính nói trên.

Tôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức "Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?".[1] Tác giả đặt chủ đề của mình trong đề tài lớn mà ông hình dung được chiều sâu và sự phong phú: minh triết Việt là "... linh hồn của văn hiến, văn học, nghệ thuật, đạo lý sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng... kể cả các lễ hội dân gian, ngôn ngữ, chữ viết, trang phục, nhạc lễ, các ngành nghề thủ công, điêu khắc và cả ẩm thực nữa.."; nó là... "cái nguồn lực, cái tạo nên hồn sống có được từ Tam giáo đồng nguyên và cái đặc thù của bản sắc dân tộc được cộng hưởng bởi 54 cư dân anh em...".

Trong bài tiểu luận Giới Đức lẩy ra những viên ngọc quý minh triết Việt từ tư tưởng vô vi, tư tưởng vô ngã..., những ý tưởng sâu sắc của Phật giáo mà tác giả tâm đắc. Tôi mong đợi những Giới Đức trong các lĩnh vực văn hóa- tư tưởng chia sẻ tâm huyết và chí hướng gây dựng minh triết Việt của Tỳ kheo Giới Đức, mỗi người trong lĩnh vực của mình lẩy ra được và gom vào một ít, dù chỉ là một hạt bụi ngọc.

Riêng với các bạn độc giả trẻ, những sinh viên, những giáo viên, những nhà báo..., những nghiên cứu viên trẻ, tôi giới thiệu một số vấn đề minh triết Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) trong văn hóa Việt Nam, hy vọng rằng qua sự phân tích và lý giải những vấn đề này, các bạn có ý niệm về minh triết và minh triết Việt.

Về "phản thân luận" đạo đức Khổng - Mạnh

Đạo đức của cá nhân bao gồm hai loại quan hệ (hoặc trách nhiệm) đạo đức: quan hệ đạo đức của cá nhân với người khác, với những cộng đồng có liên quan đến mình và quan hệ đạo đức của cá nhân với bản thân mình. Đạo đức cách mạng coi trọng sự giáo dục loại quan hệ đạo đức thứ nhất và trong những năm đầu cách mạng chúng ta đã chứng kiến sự khơi giậy và phát triển như vũ bão những cao trào tinh thần yêu nước, phục vụ nhân dân và nhân loại (đời sống xã hội trước sau được duy trì bởi nguồn sống tinh thần này).

Tuy nhiên, trong một thời gian dài chúng ta coi nhẹ loại quan hệ (hoặc trách nhiệm) đạo đức của cá nhân với bản thân mình. Trách nhiệm đạo đức này thể hiện ở những đức tính (trong tiếng Việt bắt đầu bằng chữ "tự"): tự trọng, tự tín, tự ái... Hồ chủ tịch hết sức coi trọng sự tự ý thức của cá nhân về đạo đức.Hồ chủ tịch đặc biệt coi trọng lòng "tự ái" ở con người (theo nghĩa chân chính của từ này thì nó đồng nghĩa với tự trọng). "... Không làm điều gì có hại cho danh dự của mình - Hồ chủ tịch viết - thế là chân chính và tự ái, mà ai cũng phải tự ái" (X.Y.Z. Thuốc đắng dã tật. N.x.b. Sự thật, 1960, tr.14).

Lòng tự ái, lòng tự trọng - trong quan niệm của Hồ chủ tịch - là một bề chiều (dimension) quan trọng của nhân cách đạo đức. "Ai cũng có lòng tự trọng, tự tín - Hồ Chủ tịch viết - không có lòng tự trọng, tự tín là người vô dụng". Hồ Chủ tịch viết tiếp: "Người lãnh đạo cần phải tôn trọng lòng tự trọng, tự tín của các đồng chí mình" (Hồ Chí Minh. Vấn đề cán bộ. N.x.b. Sự thật.1975, tr. 44). Không phải ngẫu nhiên người thanh niên cách mạng ưu tú họ Lý được Bác đặt cho tên là Lý Tự Trọng. Đầu thế kỷ này, Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu bàn về nhân cách của con người "lấy mình làm chủ" (là "con người mới" thời bấy giờ) cũng đề xuất ba đức tính: tự ái, tự trọng, tự tôn (Xem bài Ba đức riêng trong Nguyễn Khắc Hiếu Tản Đà tản văn in lần thứ hai, Hương sơn, 1942).

Trong sinh hoạt đạo đức, tư tưởng cũng như trong công tác giáo dục những đức tính này ít được chú ý. Đây là một lỗ hổng rất đáng được quan tâm trong đời sống đạo đức của chúng ta. Phải chăng vì vậy xung quanh chúng ta có những người có những ưu điểm đáng quý nhưng nhân cách không đẹp. Trong ngôn ngữ hàng ngày, "tự ái" bao giờ cũng được dùng với nghĩa xấu. Hầu như không có ai nhớ đến nghĩa "chân chính" của từ này, như là ý thức về phẩm giá cá nhân, như là một tình cảm cao quý khiến ta cố gắng, tìm mọi cách để xứng đáng với sự quý trọng của người khác.

Nguyễn Khắc Hiếu và Hồ Chí Minh ở trong số ít những nhà văn hoá hiểu "tự ái" như một phảm giá cao thượng, một điều cốt yếu của nhân cách đạo đức. Tự ái - Nguyễn Khắc Hiếu viết - là "chút lòng tự yêu mình, tự tiếc mình... giữ cái tài ấy, cái đức ấy... làm nên công đức ấy, sự nghiệp ấy".

"Tự trọng" là mình trọng mình, "tự tín" là mình tin ở mình, "tự ái" là mình biết yêu, biết quý mình... Những đức tính này là biểu hiện của quan hệ mình với mình trong đời sống ý thức và sự hiện diện của quan hệ mình với mình có giá trị vô song đối với nhân cách và bản lĩnh con người. Quan hệ mình với mình là tiền đề cho sự hình thành chủ thể, nó tạo ra sự đối lập giữa mình - chủ thể và mình - tồn tại, giữa "mình là"- chủ thể (être-sujet) "mình là" (être).

Trong sách Mạnh Tử (và Luận Ngữ, Trung Dung...) có một vốn từ phong phú chỉ những thao tác trong quan hệ mình với mình: tự phản (tự xét mình), xem Đ.T.C. Mạnh Tử , t.hạ, tr.60; t.thượng, tr.86, phản thân (xét lấy mình), xem Đ.T.C. Mạnh Tử, t.hạ, tr.22, phản cầu chư kỳ thân (xét trở lại cái nguyên do nơi mình ) xem Đ.T.C. Đại học, Trung dung, tr. 57, tự tỉnh (tự xét mình mà tỉnh ngộ) xem Đ.T.C. Luận ngữ, tr.59, nội tỉnh (tự xét từ bên trong bản thân ) xem Đ.T.C. Luận ngữ, tr. 183, tỉnh ngô thân ( xét bản thân mình), xem Đ.T.C. Luận ngữ, tr.4, bổn chư thân (lấy mình làm gốc)... xem Đ.T.C. Đại học Trung dung, tr.87

Trong quan niệm của Mạnh Tử, tự xét mình (tự phản, phản thân) là thao tác cơ bản trong quan hệ mình với mình trong đời sống đạo đức, có thể nói đến tự phản luận hoặc phản thân luận như là một nét quan trọng trong đạo đức học Mạnh Tử. Sở dĩ việc "tự xét bản thân mình" được coi trọng vì Mạnh Tử quan niệm "bản thân" là "gốc" của những cái gốc: "Gốc của thiên hạ là đất nước, gốc của đất nước là gia đình, gốc của gia đình là bản thân" (xem Mạnh Tử, ch.VII, 5)

Cùng bản chất với tinh thần tự xét mình là sự coi trọng việc tự trách mình hơn là trách người. "Khi xảy ra việc chẳng phải, mình nên trách mình một cách đậm đà và trách người qua loa..." (xem Đ.T.C. Luận ngữ,tr.245).

Đạo đức Khổng Mạnh đề cao lòng tự tín ở con người.

xem Đ.T.C. Đại học Trung dung, tr. 93. "Người quân tử trông cậy ở mình; kẻ tiểu nhân trông cậy ở người" xem Đ.T.C. Luận ngữ, tr. 24

Nói đến chữ tín là nói đến sự tin cậy của người khác đối với mình "tín tắc nhân nhậm yên" (có chữ tín thật thì người ta tin cậy mình), xem Đ.T.C. Luận ngữ. tr.273. Mạnh tử còn định nghĩa chữ tín trong quan hệ mình với mình.

"Người làm thiện do theo lương tâm và bổn tính, không miễn cưỡng và không giả trá, gọi là tín." xem Đ.T.C. Mạnh tử, t.hạ, tr.269

Đạo đức Khổng - Mạnh hết sức coi trọng nội lực ở bản thân con người, tính tích cực, tính chủ động của chủ thể đạo đức.

Trong đời sống đạo đức, nội lực trước hết là sức mạnh tinh thần bên trong, sự giác ngộ bên trong.

Cảm thấy trong lòng mình "có điều ngay thẳng", đó là cơ sở của nết đại dũng. Sách Mạnh tử có dẫn lời của Khổng tử: "Nếu tự xét lấy mình, thấy mình có điều ngay thẳng dẫu với hàng ngàn, hàng muôn người, mình cũng vẫn đi qua một cách an nhiên đó" xem Đ.T.C., MạnhTử, t.thượng, tr. 87. "Thấy mình có điều ngay thẳng", đó là "cái lý cốt yếu", là nội lực của lòng đại dũng. Có dũng khí, không biết sợ, nhưng không có một lý cốt yếu làm nội lực thì đó mới chỉ là "tiểu dũng", chưa phải là "đại dũng".

Đạo đức Khổng Mạnh có đòi hỏi cao về sự tự giác, sự chân thành, sự chủ động trong hành vi đạo đức.

"Làm nhân đức là do nơi mình, chớ há do nơi ai sao?" xem Đ.T.C., Luận ngữ. tr. 181

"... kẻ sĩ hào kiệt, dẫu chẳng có một ông Văn vương ra đời, tự mình cũng khởi lòng làm thiện được." (xem Đ.T.C. Mạnh tử, tập hạ, tr.223)

Tự giác, chủ động trong hành vi đạo đức là biểu hiện của sự thống nhất trong quan hệ mình với mình và "mình dối gạt mình"(xem Đ.T.C., Đại học. Trung dung. tr. 17) là điều tối kỵ trong đời sống đạo đức.

Tinh thần coi trọng sự tự xét mình và sự tự giác trong hành vi đạo đức cùng một bản chất với tinh thần coi trọng sự xem xét độc lập, sự phán xét độc lập và sự quyết định độc lập của chính mình trong hành động.

Sau đây là lời khuyên của Mạnh tử với Tuyên vương về hành động cất dùng người hiền tài.

"Như những quan hầu cận bên tả bên hữu đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài,mình chớ vội tin. Như các quan đại phu tại triều đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài,mình cũng chớ vội tin. Như khắp cả nước người ta đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài, chừng ấy mình mới quan sát. Khi đã nhận thấy quả thật là trang hiền tài, chừng đó mình mới cử dùng." (xem Đ.T.C., Mạnh tử, t.thượng, tr.61)

Có thể hình dung lời khuyên nhiều tầng lớp này như một kịch bản nhiều tình tiết:

  • Tình tiết 1: các quan hầu cận bên tả bên hữu đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài...
  • Tình tiết 2: các quan đại phu tại triều đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài...
  • Tình tiết 3: khắp cả nước, người ta đều cho rằng người nào đó là trang hiền tài...
  • Tình tiết 4: chừng ấy mình mới quan sát và khi đã nhận thấy quả thật là trang hiền tài, chừng ấy mình mới cử dùng.

Có hai cách hiểu lời khuyên của Mạnh Tử tương ứng với hai cách phân tích kịch bản nói trên mà kết quả là sự đề xuất những tư tưởng chủ đạo khác nhau.

Nếu như trong sự phân tích kịch bản, tình tiết thứ ba được xem là trung tâm thì kết luận được rút ra là: chỉ dư luận của quần chúng nhân dân (cả nước) mới đáng cho nhà vua quan tâm, ít ra nó có trọng lượng hơn dư luận của các sĩ phu, của các cận thần tả hữu... Từ kết luận này có thể nói đến quan điểm quần chúng, quan điểm trọng dân của Mạnh Tử, chúng ta có thêm luận điểm bổ sung cho tư tưởng "dân vi bản" của ông.

Nếu như trung tâm của sự phân tích là tình tiết thứ tư thì lại có một kết luận khác: dư luận của quần chúng nhân dân vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của nó nhưng không có giá trị quyết định bởi vì căn cứ cuối cùng để nhà vua quyết định là sự quan sát riêng, sự phán xét riêng của nhà vua. Qua cách lập luận chặt chẽ, khúc chiết trong lời khuyên, chúng ta có thể hình dung được nhà vua sẽ xử sự như thế nào khi sự xem xét và phán xét của nhà vua không phù hợp với dư luận của quần chúng nhân dân.

Lời khuyên của Mạnh Tử bao hàm tinh thần coi trọng dư luận của quần chúng nhân dân và tư tưởng đề cao vai trò tối hậu quyết định của sự xem xét và phán xét cá nhân trong những quyết định hành động. Có lẽ đây là một trong những tư tưởng quan trọng nhất trong sách Mạnh Tử vì nó được khẳng định ba lần trong ba dị bản của lời khuyên tiếp liền nhau và được trình bày cùng một cách dắt dẫn, lập luận, câu chữ gần như in hệt, chỉ có hành động cần được quyết định là khác. Dị bản thứ nhất của lời khuyên bàn về quyết định cất dùng một trang hiền tài nào đó. Dị bản thứ hai có liên quan đến quyết dịnh phế bỏ một người nào đó không tốt. Dị bản thứ ba xoay quanh quyết định xử giết một người nào đó phạm tội đáng chết.

Đòi hỏi phải có những lý cốt yếu làm nội lực cho những đức tính, coi trọng sự tự xét mình và sự tự giác, đề cao vai trò của sự xem xét và phán xét riêng trong quyết định hành động, cả mấy phương diện này gộp lại chứng tỏ Mạnh Tử tiếp cận khái niệm nhân cách và minh triết của ông đã đề ra những chuẩn mực có tính nhân loại phổ biến cho nhân cách con người.

Thời nào cũng vậy, nội lực mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và hoạt động xã hội, tinh thần tự xét mình và tự giác cao, bản lĩnh độc lập và tinh thần cầu thị trong sự xem xét và phán xét riêng, coi trọng dư luận của quần chúng nhưng không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận nào..., những đức tính này thường là được thiên hạ quý trọng, ở đâu cũng vậy thôi, là người hẳn hoi không thể thiếu những đức tính nói trên. Xây dựng một lý thuyết hiện đại về nhân cách không thể bỏ qua những nghĩ ngợi và đòi hỏi của Mạnh Tử về nhân cách con người.

Giai thoại sau đây có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn quan niệm của Mạnh Tử về nhân cách.

"Ông MạnhTử sắp sửa vào triều viếng vua nước Tề. Nhưng chẳng dè, vua đã sai người đến thay mặt vua mà nói với Mạnh tử rằng: "Quả nhân có ý muốn đến viếng ngài. Nhưng ngặt bị cảm vì khí lạnh, nên chẳng tiện lướt gió. Ngày mai quả nhân sẽ lâm triều. Chẳng biết quả nhân có hân hạnh gặp ngài chăng?" Mạnh tử đáp rằng: "Chẳng may tôi cũng bệnh; không thể vào triều mà bái kiến vua". (xem Đ.T.C., Mạnh tử, t.thượng, tr. 117)

Cớ sao Mạnh Tử sửa soạn vào triều viếng vua nước Tề, đến khi có lời mời của Vua thì lại cáo bệnh không vào triều nữa? Mạnh tử đến nước Tề với vị thế "tân sư" (khách bậc thầy) từ nước ngoài đến và việc ông vào triều viếng vua Tề là do tự ông chủ động. Giờ có lời mời của vua mà ông vào triều thì ông ở vào thế bị động và bị lạc vị thế, từ vị thế tân sư ông tụt xuống vị thế một quan chức bị triệu vào triều bái kiến vua (dù cho lời mời của vua hết sức trang trọng và lịch sự). Nói một cách nôm na, Mạnh Tử là người đáo để. Xét thấu đáo ta thấy ở Mạnh Tử có mối quan tâm thường xuyên kiểm soát và làm chủ những vị thế của mình, điều này thể hiện một quan niệm cao về nhân cách.

Sự hiện diện của quan hệ mình với mình trong đời sống ý thức là cấu trúc tâm lý của những đức tính tự trọng, tự tín, tự ái..., là tiền đề của sự hình thành chủ thể, của sự khẳng định nhân cách, bản lĩnh độc lập. Cũng như cái "tôi" của Descartes có sức mạnh không chỉ vì nó "nghĩ ngợi" mà còn vì nó "biết rằng nó nghĩ ngợi", "cây sậy nghĩ ngợi" của Pascal cũng vậy, nó vô cùng yếu ớt, một giọt nước đủ giết chết nó, sức mạnh của nó là ở chỗ nó biết nó chết, ở nó có cái "mình chết" và cái "mình biết rằng mình chết", chính vì vậy nó vượt lên trên Vũ trụ thừa sức tỷ tỷ lần tiêu diệt nó.

Thử bàn về "tứ vô" của Khổng Tử

Phan Bội Châu đặc biệt quan tâm đến tư tưởng "vô ngã" của Khổng Tử (xem Khổng học đăng, thượng thiên về "Luận ngữ trích lục diễn giải"). Hải Lượng (pháp danh của Ngô Thì Nhậm) trong viêc đánh giá Hàn Dũ (tự xưng là Hàn Xương Lê) lấy "tứ vô" của Khổng Tử làm chuẩn: "Đồ đệ bạch với thầy (Hải Lượng) rằng: Xương Lê đã đến bậc nhất của phù đồ chưa? Thầy đáp: Mới đến bậc ba, bậc bốn. Xương Lê cũng theo ý và tất, chẳng bằng "vô ý", "vô tất" mới thật tốt" (Ngô Thì Nhậm, "Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh").

Luận ngữ, chương IX, tiết 4 có câu: "Tử tứ tuyệt: vô ý, vô tất,vô cố, vô ngã", được Nguyễn Đức Lân dịch nghĩa là: "Phu tử có bốn điều tuyệt nhiên không mắc phải:...". Hiểu như thế nào đây "vô ý", "vô tất", "vô cố", "vô ngã"?

Tôi thiên về cách hiểu, phân tích, diễn nghĩa của François Jullien [2]. Những ý kiến được trình bày dưới đây chủ yếu được tham khảo từ công trình của F.Jullien đươc dẫn ở chú thích 3.

  • Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến mà có nghĩa là: không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hoá khiến cho ta không nhìn thấy những điều hợp lý, khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập.
  • Vô tất có nghĩa là không định trước những điều thế tất, ắt phải như thé này, ắt phải như thế kia, không áp đặt những mệnh lệnh tất phải thế này, tất phải thế kia.
  • Vô cốcó nghĩa là không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào.
  • Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt.

Có liên quan mật thiết giữa 4 cái .

Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui; tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Để duy trì địa vị độc tôn, để đối phó với những tư tưởng khác, nó buộc phải định trước những sự tất yếu (không tránh khỏi phiến diện) và đưa ra những mệnh lệnh chủ quan (vi phạm quan điểm vô tất).

Tư tưởng độc tôn dẫn đến sự cố chấp trong quan điểm, lập trường (vi phạm quan điểm vô cố). Tư tưởng độc tôn,cố chấp quan điểm, lập trường cùng với những thành kiến, định kiến cố hữu tạo ra một cái tôi (ngã) đặc biệt (moi particulier). Cái tôi đặc biệt là cái tôi khép kín trong sự phiến diện, bị định hình một cách cứng nhắc, không mở ra được đặng khai thông với những mặt khác của thực tại, của cuộc sống, của nhận thức... bao giờ cũng vô cùng sinh động và phong phú.

Vô ý, với ý nghĩa là không tuyệt đối hoá một tư tưởng nào, quan tâm đúng mực mọi tư tưởng (cũng như mọi phương diện, mọi khả năng của thực tại) là một tư tưởng cơ bản trong minh triết của K.T. Quan tâm đúng mực mọi tư tưởng giống như mở ra mọi cánh cửa, thấy được mọi ngả đường. Còn như tuyệt đối hoá một tư tưởng thì giống như có một cánh cửa được mở toang ra nhưng những cánh cửa khác thì bị khép lại, có thể nhìn xa hơn, thấy rộng hơn theo một ngả đường nhưng trả giá cho lợi thế này có khi là sự mù trước những ngả đường khác.

Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến, không có tư tưởng;quan điểm vô ý ngăn ngừa sự độc quyền hoá của một tư tưởng. Câu nói của K.T. "Quân tử chu nhi bất tỷ, tiểu nhân tỷ nhi bất chu" (Luận ngữ ,II,14) được F.J. hiểu như sau: "Người quân tử bao quát tổng thể, không thiên vị một phía nào, kẻ tiểu nhân thì ngược lại", (bản dịch của Đ.T.C: "Bực quân tử xử được với tất cả mọi người vì chẳng có lòng tư vị, kẻ tiểu nhân vì tư vị cho nên chẳng xử được với mọi người"). Trong Kinh Dịch về quẻ Càn có câu: "Kiến quần long vô thủ, cát". Dịch: Thấy bầy rồng không có đầu, tốt (6 vạch ngang liền nét đều ngăn ngắt trong hình tượng quẻ Càn được hình dung như một bầy rồng không đầu).Vương Phu Chi (1619-1692) đã bình giảng câu này theo quan điểm vô ý của K.T. Bầy rồng không đầu có nghĩa là không có con rồng nào có đầu nhô ra, thòi ra, nổi hơn những con khác.

Những con rồng được coi trọng ngang nhau, có nghĩa là những ý kiến, những tư tưởng, những phương diện khác nhau của thực tại được coi trọng ngang nhau. Như vậy cách nhìn minh triết là cách nhìn bao quát, thấy được và quan tâm mọi mặt, mọi khả năng của thực tại, không vì thiên lệch một phía mà ngoảnh lưng với những phía khác. Nhưng vô ý không có nghĩa là không dấn thân, không đứng về phía nào (trong hành động).

(Luận ngữ, IV, 10) mà Đ.T. còn dịch là: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm" (tôi tô đậm.H.N.H.); bình giảng câu này, F.Jullien có nêu lên một nghĩa cổ của chữ nghĩa là: đòi hỏi của tình thế và ông đã giảng hạp nghĩa là hạp với đòi hỏi của tình thế (chúng ta có thêm một cứ liệu ngôn ngữ học để hiểu chữ nghĩa của Khổng giáo).

Như vậy, người minh triết không phải là không có chủ kiến, duy có một điều đây không phải là chủ kiến có sẵn, được định trước cho mọi khả năng, mọi tình thế, mà đây là chủ kiến được đề ra từ những đòi hỏi của tình thế (cụ thể). Có thể hiểu rõ hơn quan điểm vô ý qua lời bàn sau đây của một nho gia: "Khi cần giàu thì giàu và khi cần nghèo thì nghèo, khi cần sống thì sống và khi cần chết thì chết". Như vậy, giàu hay nghèo, sống hay chết là những khả năng được coi trọng ngang nhau, chọn khả năng nào là tuỳ theo đòi hỏi của tình thế, người minh triết không cố chấp hoặc gạt bỏ trước (a priori) bất cứ khả năng nào.

Trong Luận ngữ (XVIII, 8) K.T. có phân biệt ba loại thánh nhân. Họ đều bỏ công danh phú quý, đi ở ẩn nhưng họ có những phong độ ứng xử rất khác nhau. Loại thứ nhất như Bá Di, Thúc Tề "chẳng khuất chí mình, chẳng nhục thân mình" [bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân], không thể chê trách vào đâu cả; loại thứ hai như Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, kém hơn, "phải khuất chí mình, phải nhục thân mình".

Tuy vậy, lời nói của họ "hợp luân lý"[ngôn trúng luân], việc làm của họ "hợp lòng mong nghĩ của dân" [hành trúng lự]; loại thứ ba như Ngu Trọng, Di Dật "ở ẩn nơi xa vắng và ăn nói rất tự do, phóng túng"[ẩn cư, phóng ngôn] nhưng "giữ mình đúng lẽ thanh khiết và biết bỏ phế đúng lẽ quyền biến" [thân trúng thanh, phế trúng quyền] (điều đáng chú ý là ngay ở loại thứ hai và loại thứ ba, trong phong độ có những chỗ có thể chê trách K.T. vẫn nhận ra ở họ sự chân chính và những phẩm giá đáng trọng, vẫn xem họ là thánh nhân). Sau khi nêu ba loại thánh nhân và không sắp mình vào một loại nào, K.T. hạ một câu: "Còn ta thì khác ở chỗ chẳng có gì là được hoặc không được" - tức là chẳng có gì là thích hợp với ta hoặc không thích hợp với ta [Ngã tắc dị ư thị vô khả, vô bất khả] (tôi tô đậm.H.N.H.).

Trong ba loại người nói trên loại thứ nhất và loại thứ hai là hai thái cực đối lập với nhau, loại thứ ba xem như nửa này, nửa kia.K.T. không thuộc về loại thứ nhất, chẳng thuộc về loại thứ hai, càng không phải là loại thứ ba. Tử có thể là loại người này cũng như có thể là loại người kia, đó là tuỳ theo tình thế. Tử không phải là người cố chấp, cũng chẳng phải là người không cố chấp. Vì chưng Tử có thể cố chấp như những người cố chấp nhất, khước từ mọi sự nhân nhượng mà cũng có thể thoả hiệp hoàn toàn với người đời, miễn sao có cơ giúp ích cho đời. Người minh triết là người "không định ra được phẩm chất" (sans qualification) với ý nghĩa là không có phẩm chất như là thuộc tính "cố hữu", "bản chất", "bất biến", mà có phẩm chất này hay phẩm chất kia là do đòi hỏi của tình thế.

Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh

Về đức hạnh của Khổng Tử, Mạnh Tử nói: "Lúc nên (khả dĩ) làm quan thì làm quan. Lúc nên (khả dĩ) bỏ chức thì bỏ chức. Cần (khả dĩ) làm quan lâu thì làm quan lâu. Cần (khả dĩ) ra đi gấp thì ra đi gấp. Đó là cái hạnh của đức Khổng vậy" (Khả dĩ sĩ, tắc sĩ. Khả dĩ chỉ, tắc chỉ. Khả dĩ cửu tắc cửu. Khả dĩ tốc, tắc tốc. Khổng Tử dã.), (Mạnh tử,. II,A, 2).

Cái khả dĩ gắn với tình thế (cụ thể) và tình thế gắn với thời điểm (moment). Cái khả dĩ (possible) đồng thời là cái chính đáng (légitime) vì phù hợp với tình thế (cụ thể) và thời điểm, tức là phù hợp với thờithế. Tiêu chuẩn của tính chính đáng cũng như của những phẩm chất đạo đức khác gắn một cách nội tại với tình thế và hoàn cảnh cụ thể. Cái chính đáng (vốn gắn với tình thế cụ thể) được đề lên thành quy tắc khái quát chung cho mọi tình thế không tránh khỏi trở thành vũ đoán. Đã đành người minh triết không chấp nhận những tư tưởng cá biệt quá (gắn với cái ngã đặc biệt) mà những tư tưởng khái quát quá cũng không tin vì loại tư tưởng này không tính đến đặc điểm của mỗi thời, sự khác biệt giữa những thời khác nhau.

Minh triết có nhiều phương diện, biểu hiện ở nhiều đức tính. Có người là bậc thánh về phương diện này, có người là bậc thánh về phương diện nọ... Như nhận định của Mạnh Tử "ông Bá Di là bực Thánh có đức thanh khiết (Bá Di thánh chi thanh giả giã), ông Y Doãn là bậc thánh có đức trọng nhiệm (YDoãn thánh chi nhiệm giả giã), ông Huệ xứ Liễu là bậc thánh có dức ôn hoà (Liễu Hạ Huệ thánh chi hoà giả giã). Đức Khổng tử có đức thời trung (Khổng tử thánh chi thì giả giã "(tôi tô đậm.H.N.H.)". (Mạnh tử,V,B,1). Đức thời trung (chữ của Đoàn Trung Còn) là cái đức tuỳ theo thời và thế mà thanh khiết như Bá Di hoặc trọng nhiệm như Y Doãn hoặc ôn hoà như Liễu Hạ Huệ... Như vậy K.T. không phải là sự hiện thân của một nét "nhất thành bất biến" nào của minh triết mà tuỳ thời, tuỳ tình thế (cụ thể) K.T. thực hành phương diện này hay phương diện nọ của minh triết. Nhấn mạnh sự tập đại thành nhiều đức tính ở Khổng tử có thể che lấp đức thời trung ở Tử. Kết luận rằng Khổng Tử có đủ mọi đức tính không quan trọng bằng nhận định Khổng Tử đúng thời, đúng lúc (thời trung) thực hiện đức tính này hay đức tính nọ. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh.

Tuỳ thời thế chọn khả năng

Bản thể là một khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Minh triết phương Đông không phải không biết đến bản thể nhưng mối quan tâm chủ yếu của minh triết là quá trình. Trung dung là tâm pháp để đièu tiết các quá trình.Mỗi quá trình trong sự tự tại của nó có sự tự điều tiết. Trung dung là sự gia công vào sự tự điều tiết này và phải dựa vào nó. Ý kiến của Mạnh Tử phê phán thái độ chấp trung, thái độ chấp nhất hết sức quan trọng để hiểu tinh thần của trung dung.

Mạnh Tử nói rằng: "Dương Tử giữ lấy chủ nghĩa vị ngã, tức là chủ nghĩa của kẻ chỉ chuyên lo cho mình mà thôi. Dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ ông cũng chẳng chịu làm.

Mặc Tử thi hành chủ nghĩa kiêm ái, thương tất cả mọi người như mình. Dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh dầu cho chí gót chân, mà có lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh.

Tử Mạc bảo thủ chủ nghĩa chấp trung, cốt giữ cho vừa vặn phần mình và phần người. Chủ nghĩa chấp trung gần với dạo lý. Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời, như vậy cũng như chấp nhất, tức là khư khư câu nệ một bề vậy thôi. Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề" [H.N.H.tô đậm] (Mạnh tử. VII, A.26).

Như vậy chấp trung là đứng ở giữa hai thái cực đối nghịch (vị ngã cực đoan và kiêm ái tột độ). Hiểu như vậy, chủ nghĩa chấp trung gần với quan niệm của Aristote về đạo đức: đức hạnh là trung độ đúng mực (juste milieu) ở giữa hai tính trái ngược, giữa sự bất cập và sự thái quá, chẳng hạn như can đảm là trung độ đúng mực (juste milieu) giữa sự nhút nhát (bất cập) và sự táo tợn (thái quá). Mạnh Tử không chê trách chủ nghĩa chấp trung ("...chấp trung gần với đạo lý").

Tuy nhiên nếu như chấp trung chỉ thiên về giữ trung độ cho đúng mực, loại trừ bất kỳ sự thái quá nào thì như vậy là trái với tinh thần của trung dung. Bởi vì trung dung không có nghĩa là nửa vời, lưng chừng, không nóng không lạnh... Trung dung có khi đòi hỏi sự nỗ lực, sự hy sinh cao nhất, chấp nhận những nỗi đau lớn và những niềm vui tràn trề... Thông thường trung dung là mức độ trong sự nghiêm khắc nhưng cũng có khi trung dung cho phép một sự nghiêm khắc tột độ, nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn. Không chê trách thái độ chấp trung, MạnhTử bài bác gay gắt thái độ chấp nhất: Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo giã(Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến thiên lệch làm hại đạo lý). Chấp nhất là "chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời", là "khư khư câu nệ một bề vậy thôi".

Như vậy chấp nhất là khư khư bám lấy một trung điểm, không dám chênh về phía này hoặc lệch về phía kia, có nghĩa là trong xử sự chỉ tính đến một khả năng,tự trói mình vào một khả năng.Và như vậy, nói như Mạnh Tử, là "cử động theo một bề (một khả năng)"mà "bỏ hỏng cả trăm bề (trăm khả năng)". Theo đúng tinh thần của Khổng - Mạnh, trung dung là đứng giữa (chứ không phải là khư khư bám lấy một trung điểm) và tự dành cho mình quyền tính đến và lựa chọn trong cả trăm khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hoặc phía thái cực kia. Lựa chọn khả năng nào là tuỳ theo thời và thế.

Vô vi trong Đạo đức kinh

Vô vi là một cách làm biết nương theo cái "tự nhiên" của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão tử gần với minh triết của Thomas Jefferson đã nghiệm rằng: "chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn".

Trong Đạo đức kinhvô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan (cậy quyền lực một cách vũ đoán, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật. Hiểu như vậy thì "vi vô vi" (th.63) là làm mà không can thiệp chủ quan, "sự vô sự" (th.63) là làm mà "không đa sự (phiền hà)","không sinh sự"... và câu danh ngôn "vô vi nhi vô bất vi" có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán...) thì chẳng có việc gì là không làm".

Trong minh triết Đông Á, cách làm "vô vi" quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh tử (xem Mạnh tử ,II, A,2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì "đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong... mà nong sức trưởng thành..." [H.N.H.tô đậm], đừng có làm như người nước Tống kia "lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổ lên từng cọng". "Không hấp tấp nong sức trưởng thành..." cũng như "nhổ cỏ mọc xen đám mạ" để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi.

Trong việc trị dân cũng vậy, Lão tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân. Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th.57]: "ngã vô vi nhi dân tự hóa... ngã vô sự nhi dân tự phú..." (...ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa..., ta không làm [theo cách đa sự, sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc...).

Như vậy "vô vi" không có nghĩa là "không làm". "Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!" (Nguyễn Duy Cần).[3] Vô vi là một cách làm biết nương theo cái "tự nhiên" của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta, minh triết "vô vi" sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ:

Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi, cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.

Dịch thơ

Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh

(bản dịch thơ trích dẫn từ WikiPhậtgiáo)

Đại ý hai câu cuối của bài kệ được giảng là: "Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao". Có thể triển khai ý hai câu này như sau: "mọi chốn đều tắt binh đao" có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều "mở thái bình", "thái bình" có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, vì "dân tự hóa" (bớt tham, sân, si), vì "dân tự phú" (thoát cảnh nghèo đói) ...; Do đâu mà "mở thái bình"? đến đây có thể láy lại câu của Lão tử, vì vua "vô vi mà dân tự hóa", vì vua "vô sự mà dân tự phú".

Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, trong một bức thư viết ngày 12/6/1815 (năm tham chính cuối cùng của ông), T.Jefferson đã tổng kết kinh nghiệm hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt động chính trị của ông như sau: "Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn". Đầu t.k.XIX, ở phương Tây thanh thế của triết học nổi trội vượt bậc, minh triết bị lu mờ, thế nhưng điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: "Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta". Và tư tưởng "càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn" mà minh triết dạy cho ông rất gần với minh triết "vô vi" của Lão tử.

Minh triết 14 điều Phật dạy

Thời gian gần đây, ở nhiều chùa, cả trong những tư thất thấy trên những bản in giấy và những bức trướng thêu nêu lên Mười bốn điều Phật dạy[4] (cũng có thể gọi là Mười bốn điều minh triết của Phật):

1. Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
2. Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
3. Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
4. Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
5. Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
6. Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
7. Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
8. Đáng khâm phục nhất của đời người là vươn lên sau khi vấp ngã
9. Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
10. Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ, trí tuệ
11. Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
12. Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung
13. Khuyết điểm lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
14. An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.

Những vấn đề đươc nêu lên trong 14 điều Phật dạy là những tính xấu phổ biến trong nhân loại: tự đại, dối trá, ghen tị, bất hiếu..., những tình thế con người hay gặp phải: tuyệt vọng, vấp ngã..., những khuyết điểm, nhược điểm thường có ở con người: tự ti, kém hiểu biết..., những giá trị ở đâu cũng đáng giá: sức khỏe, trí tuệ... Sức thuyết phục của 14 điều Phật dạy trước hết là ở tính phổ quát, dường như ở bên trên mọi sự phân biệt chủng tộc, dân tộc, văn minh, tín ngưỡng, hệ tư tưởng... 14 điều Phật dạy không hề nhắc đến "Nát bàn", "vô ngã", "bể khổ", "giải thoát"... Phải chăng mang mầu sắc giáo lý sức thuyết phục của những lời dạy có thể bị hạn chế?

Chẳng hạn đối với những người theo đạo Thiên chúa, đạo Hồi... Phải chăng đây cũng là một đặc trưng của minh triết và những điều minh triết? Cũng cần chú ý đến hình thức diễn đạt những lời dạy (những câu minh triết thường đòi hỏi hình thức diễn đạt đặc sắc). Hình thức diễn đạt hầu hết những điều dạy này của Phật gây hiệu quả bất ngờ. Dối trá thường được xem xét ở bình diện đạo đức, ở lời dạy thứ 3 nó bị phán xét ở bình diện nhận thức: "Ngu dốt lớn nhất của đời người." (rất có thể "ngu dốt" là từ nôm na để gọi chữ "vô minh" của nhà Phật, ý thức về việc này của người biên tập tiếng Việt 14 điều Phật dạy rất đáng kính trọng).

Ở lời dạy thứ 12, khoan dung còn lớn hơn một đức hạnh, nó là "lễ vật lớn nhất của đời người". Nói đến tài sản, ai cũng nghĩ đến vốn liếng tiền tài, vàng bạc, nhà cửa..., với lời dạy thứ 10, "sức khỏe, trí tuệ" mới là "tài sản lớn nhất của đời người", không mấy ai nghĩ đến điều này, đọc lời dạy thứ 10, ta "ngộ" ngay ra được, không hiểu sao điều hết sức đơn giản này mà ta không hề nhận ra. (đây cũng là đặc điẻm chung của những điều minh triết). Nói đến "bố thí" ta nghĩ đến sự giúp đỡ, sự "an ủi" người "được bố thí", Phật lại nghĩ " bố thí" trước hết là niềm "an ủi", niềm "an ủi lớn nhất của đời người" cho chính người "làm bố thí" (lại một sự đảo lộn trong nhận thức, thêm một ví dụ nữa về "tính sáng" của minh triết). Người tự ti hay bị coi thường, Phật lại thấy họ là người "đáng thương" (lời dạy thứ 7).

Ai cũng biết "bất hiếu" là tội lỗi, theo lời dạy thứ 6, nó là "tội lỗi lớn nhất của đời người". Trong cả 14 lời dạy, những sự đánh giá đều ở "cấp cao nhất". Đây là một hình thức gây sự bất ngờ đồng thời tạo ra sự thống nhất của 14 lời dạy của Phật. Bất ngờ nhất là lời dạy thứ nhất. Ai cũng biết cái "tôi" của mình là "đáng ghét", nhưng thật bất ngờ, nó là "kẻ thù lớn nhất của đời người". Nói đến "kẻ thù", người ta nghĩ đến những kẻ thù "hai chân, bốn chân" ở bên ngoài mình, Phật chỉ ra nó là "tự ngã" ở bên trong mình. Cả Phật và "kẻ thù lớn nhất của đời người" đều ở bên trong con người!

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có một điểm son về tinh thần đổi mới truyền thống: tư tưởng Trần Nhân Tông (1258-1308). Vua-Phật Trần Nhân Tông đặt rất cao yêu cầu đổi mới trong nhận thức. Trong một bài giảng ở chùa Vĩnh Nghiêm, trước ba câu hỏi của thiền sinh:

  • Thế nào là Phật?
  • Thế nào là Pháp?
  • Thế nào là Tăng?

Cả ba lần ông chỉ có một câu trả lời: "Hiểu theo lối trước là chẳng phải"[8]

Phật, pháp, tăng là "tam bảo", là nguyên lý của những nguyên lý trong giáo lý đạo Phật. Trần Nhân Tông kiên quyết phủ định cách hiểu theo lối trước chính Nguyên lý ấy. Bất cứ sự đổi mới nhận thức nào cũng phải bắt đầu bằng sự nghi ngờ, phủ định cách hiểu cũ. Trần Nhân Tông là một tấm gương của sự đổi mới tư tưởng và nhận thức. Chắc ông biết quá rõ những vụ án văn tự và sự cố chấp riết róng của người đời trong cách hiểu các thứ kinh bổn. Chỉ cần "rời" Kinh một chữ đủ bị lên án biến kinh Phật thành "ma thuyết". "Phật", "Pháp", "Tăng" là "danh" của những khái niệm. Danh có khi chỉ là "vỏ", cách hiểu những khái niệm mới là "ruột". Trần Nhân Tông giữ lại những cái "danh", những cái "vỏ", về hình thức xem như vẫn giữ lại những "khái niệm". Ông không đưa ra những khái niệm mới thay cho những khái niệm cũ, ông không đập vỡ, vứt bỏ những cái "vỏ", mà chú trọng sự thay đổi "ruột" bằng cách đưa ra những cách hiểu "mới", "tùy duyên". Phải chăng đây là một kinh nghiệm minh triết của sự đổi mới?

"Đổi mới" đặt ra vấn đề cách đối xử với những truyền thống.

Trong một buổi thiền sư Trúc Lâm đại đầu đà (tức Trần Nhân Tông) khai đường ở chùa Vĩnh Nghiêm, có một thiền sinh hỏi: "Dùng công án cũ để làm gì?"

Thiền sư trả lời: "Mỗi lần nêu ra một lần mới"[9]

Trong một buổi khai đường khác ở viện Kỳ Lân, cũng vấn đề này được đặt ra, câu trả lời in hệt nhưng cách hỏi "xóc óc" hơn:

Một thiền sinh hỏi: "Dùng đờm dãi người xưa làm gì?"

Thiền sư trả lời: "Mỗi lần nêu ra một lần mới"[10]

"Công án cũ", "đờm dãi người xưa" thuộc về truyền thống. Trong quan niệm của Trần Nhân Tông, truyền thống cũng phải đổi mới (tức là phải có cách hiểu mới và vận dụng mới) và đổi mới truyền thống phải có tính cập nhật: "mỗi lần nêu lên một lần mới".

"Cư trần lạc đạo" là một tư tưởng lớn của dòng Thiền Trúc Lâm Yên tử. Tôi giật mình khi đọc câu đầu trong bài kệ ở cuối bài phú "Cư trần lạc đạo".

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên[11]

Hóa ra tư tưởng "cư trần lạc đạo" cũng như những tư tưởng lớn khác cũng phải "tùy duyên" mà hiểu, mà vận dụng. Mọi nguyên lý và tư tưởng dù cao siêu, cơ yếu đến đâu mà tách ra khỏi cái "duyên" níu kéo, nương vịn của những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cuộc sống không tránh khỏi trở thành những giáo điều vô duyên, vô dụng. "Bảo vệ nguyên lý và truyền thống" không thể tách rời "hiểu mới nguyên lý và truyền thống" trong sự vận dụng...


[1] Phật tử Việt Nam (báo mạng) số ra ngày 23/12/2008
[2] Xem F.Jullien, "Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây", bản dịch của Nguyên Ngọc, bài "Thay lời giới thiệu" của Hoàng Ngọc Hiến , N.x.b. Đà Nẵng, 2003
[3] Xem Lão tử. Đạo đức kinh. Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú. N.x.b. Văn học.1992,tr.21
[4] Theo Wikipedia Việt "14 điều dạy của Phật" là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rõ ràng, nhưng nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trong kinh Phật. Ở Việt Nam, có những bản "14 điều Phật dạy", phía dưới có ghi chú:Hòa thượng Kim Cương tử sưu tầm, biên tập
[5] Cũng có những blog (khoảng một phần mười) có thái độ diễu nhại. Tiêu biểu là bài sau đây chúng tôi đọc trên mạng:

14 "Điều Răn của Mẹ"

1. Kẻ thù lớn nhất của con là nó (vợ con)
2. Ngu dốt lớn nhất của đời con là không hiểu ra được nó
3. Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó
4. Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó
5. Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó
6. Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe lời nó
7. Đáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến
8. Đáng khâm phục lớn nhất của đời con là vẫn chịu được nó
9. Phá sản lớn nhất của đời con là cuợc đời con đã mất trong tay nó
10. Tài sản lớn nhất của đời người con là những thứ nó đang giữ
11. Món nợ lớn nhất của đời con là tờ giấy ly hôn
12. Lễ vật lớn nhất của đời con là sự hết lòng của con với nó
13. Khiếm khuyết lớn nhất của đời con là con không lấy được hai vợ
14. An ủi lớn nhất của đời con là thằng con nó đẻ ra

[6] Lê Mạnh Thác, Toàn tập Trần Nhân Tông, N.x.b. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.8
[7] Như trên
[8] Lê Mạnh Thác, sách đã dẫn, tr.419,420
[9] Sách đã dẫn, tr.421
[10] Sách đã dẫn, tr.435,436
[11] Bản dịch của Lê Mạnh Thác

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Ăn, nói, gói, mở và sự “minh triết” Việt Nam

    04/10/2016Hạ Vĩnh ThầnCách đây mấy ngày, tôi có nhắc đến chuyện tại sao ông cha ta lại khuyên con cháu mình phải Học ăn, học nói, học gói, học mở. Ý tưởng của bài này xuất phát từ chỗ quá buồn về cách ăn nói của một số vị, không hề cân nhắc nên phải nói trước dân, trước truyền hình như thế nào cho hợp lẽ. Thực ra, tôi đã nghĩ từ rất lâu về điều mà cha ông mình đã minh triết: Tại sao trong cuộc đời chỉ cần học có 4 điều thôi?
  • Phương Đông và phương Tây

    07/11/2015Phạm Quỳnh (sinh (17/12/1892 - mất 6/9/1945)Chúng ta sống trong một thời kỳ khủng hoảng của lịch sử thế giới. Đấy không phải là một lời sáo rỗng tầm thường, một công thức mơ hồ và có phần cường điệu. Đấy là một nhận xét cần thiết nếu ta nghĩ đến những hậu quả kinh khủng của bi kịch do cuộc va chạm giữa Phương Đông và Phương Tây gây ra trên thế giới...
  • Minh triết và hạ tầng tư duy

    17/12/2010Giáp Văn DươngMuốn phát triển, phải xây dựng được một hạ tầng tư duy vững chắc, phong phú và thông thoáng, để từ đó, tạo ra những sản phẩm tư duy có giá trị. Minh triết, với vai trò như một phông nền văn hóa, có mặt trong nhiều thành phần trong cấu trúc của hạ tầng tư duy. Vì thế, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa minh triết và hạ tầng tư duy có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng tư duy, tạo điều kiện cho việc giải phóng tư duy, hình thành những tư tưởng mới, sáng tạo và có giá trị cho đất nước.
  • Triết học là gì?

    28/04/2010Hình như triết học không có một chủ đề xác định nào như trong các khoa học và các nghiên cứu kinh viện. Phải chăng triết học bao gồm mọi lĩnh vực tri thức? Hay nó chỉ đơn thuần là tư tưởng, không có một đối tượng riêng biệt nào? Triết học có phải là một khoa học mang đến cho ta tri thức chắc chắn và chính xác, hay chỉ là nghệ thuật suy nghĩ?
  • Một số ý kiến về minh triết Việt

    02/01/2010TS. Hồ Bá ThâmLàm rõ đặc dểm và vai trò của minh triết Việt Nam trong lịch sử trong quá trình tiến lên văn minh, hiện đại...
  • Hoàng Ngọc Hiến (1930 - 2011)

    25/10/2009GS lý luận phê bình, dịch giả văn học Việt Nam đương đại
  • Trở về cội nguồn minh triết Việt

    10/10/2009Hà Văn ThùyTrong ý nghĩa nào đó thì minh triết là “Sự khôn ngoan và sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa và tỏa năng lượng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc.” Vì vậy, muốn tìm cội nguồn của minh triết, trước hết phải tìm ra cội nguồn văn hóa.
  • Bàn về minh triết

    23/09/2009Nhận lời mời của Hoàng Ngọc Hiến, chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm nghiên cứu Minh Triết Việt, trong 3 ngày 7, 8, 9 nhà triết học François Jullien, giáo sư Đại học Tổng hợp Paris- Diderot, Viện trưởng Viện Tư tưởng đương đại, đã đến thăm và làm việc với Trung tâm.. Dưới đây là bài nói chuyện của ông về 3 chủ đề: Đấu tranh…và quản lý cái tiêu cực, Cái phổ quát, Minh triết và Thời hiện đại.
  • Luận bàn về những vấn đề minh triết

    10/09/2009Hoàng Ngọc HiếnMinh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo…. Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy dược cái chung giữa ta và người, cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.
  • Ngày xuân bàn về Minh Triết

    25/01/2009Hoàng Ngọc HiếnĐịnh nghĩa minh triết là gì? - việc này rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: "Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết". Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000 USD, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia. Đây là nội dung tham luận trong buổi sinh hoạt học thuật đầu tiên của Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt được thành lập cuối quý II năm 2008...
  • Tiềm năng con người qua nhãn quang khoa học - khai mở tiềm năng bằng tri thức

    30/01/2008Hồ Văn Khánh"Tiềm năng" có nghĩa là năng lực tiềm tàng trong cuộc sống, những nguồn năng lượng tiềm ẩn trong cơ thể. Chúng có thể đã, đang và sẽ biểu hiện qua muôn hình vạn trạng của tạo vật trên mọi khía cạnh, sắc thái của vạn hữu tùy theo thiên chức nhân duyên hay sự điều tâm rèn luyện mãnh liệt...
  • Một hành trình triết học hấp dẫn

    16/07/2006Nguyên NgọcVấn đề của F. Jullien có thể tóm gọn thế này: ông muốn suynghĩ lại về tư duy phương Tây. Làm thế nào để có thể suy nghĩ lại về nền triết học đã có mấy nghìn năm lịch sử vĩ đại ấy? Chỉ có một cách: phải đi ra bên ngoài nó, suy nghĩ về nó từ một cái bên ngoài...
  • Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây

    07/07/2006Nguyên Ngọc (Dịch & giới thiệu)Viết công trình này Francois Jullien qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng TrungHoa cổ dại (là cơ sở để nghiên cứu minh triếtphương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây)...
  • Minh triết của giới hạn

    03/08/2005Nguyễn Trung HiếuTập sách này bắt đầu bằng những câu hỏi triệt để và quyết liệt. Triệt để nhưng không khép kín, tập sách mời gọi bạn đọc vào một cuộc phiêu du trí tuệ. Bằng cách tham gia vào cuộc phiêu du ấy, bạn sẽ tự phát hiện ra những ý tưởng của riêng mình...
  • Minh triết đại học đến từ đâu?

    28/05/2003Đã từ lâu, bất cứ ai quan tâm đến nền giáo dục đại học đều nhận thấy rằng lối giảng dạy như hiện nay không thể nào kích thích được năng lực tư duy độc lập, phát triển óc phê phán, biết hoài nghi khoa học, biết và dám không phục tùng ngụy lý, biết và dám phê phán cái lạc hậu, cái sai lầm nơi người học Tức là lối giảng dạy đó không thể mang lại sự "minh triết” cần phải có của một nền giáo dục đại học "chính danh". Tại sao lại như thế vậy, cái gốc của tình trạng này hệ tại ở đâu?
  • xem toàn bộ