Luận bàn về những vấn đề minh triết
Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914-1997)[1]
- Ngô Thời Sĩ có phân biệt “đạo lý thánh hiền” và “đạo lý đời thường”: “Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo đời thường để cảm hoá lòng người”. Trên đại thể, minh triết là “đạo lý đời thường”. Đạo lý này có tính chất đời thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người. Nói môt cách khác, ai cũng có thể có minh triết. Triết lý thì khác, triết luận đòi hỏi năng lực tư duy đặc biệt, không phải cứ muốn thì trở thành triết gia. Đời thường còn có nghĩa là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật. Trí khôn, trí tuệ, trí thức… của minh triết bao giờ cũng gắn với kinh nghiệm sống đời thường, nó vốn nảy sinh từ những kinh nghiệm này. Đây là một đặc tính quan trọng của minh triết. Triết lý thì khác, nó thiên về thuần lý và có xu hướng thoát ra khỏi “tính cục bộ”, “tính cụ thể” của kinh nghiệm.. Đến đây dựa vào những đặc trưng của ý thức minh triết và nhất là tư tưởng hiền minh của Ngô Thời Sĩ, tôi mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về minh triết như sau: “Minh triết là tính sáng khôn (có khi được diễn ngôn thoáng gọn) chủ yếu được sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với đạo lý thánh hiền, thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời”. Dùng từ “tính sáng khôn” tôi muốn hiểu minh triết cũng như tính Phật là tính sẵn có trong lòng người, nói như Nhất Hạnh, nó là “hạt giống tốt’ vốn có ở mọi người. Cân nhắc giữa 3 từ: “trí khôn”, “sự khôn ngoan”, “tính sáng khôn”, cuối cùng tôi chọn từ “tính sáng khôn”, “tính sáng” như là một thuộc tính của “minh tâm” và Phật tính là một từ của nhà Phật được nhắc đến nhiều lần trong bài “Cư trần lạc đạo phú” nổi tiếng của Trần Nhân Tông (1258-1308)[2]. Tôi nhấn mạnh: “chủ yếu được sống và sống” bởi lẽ lẽ sống của nhà hiền triết là “sống” và “sống” minh triết chứ không phải “nói” và “nói” minh triết. Tôi nhấn mạnh thuộc tính “thiên về cảm hóa lòng người…” vì ở trạng thái nhân thế hiện nay, ở xã hội ta cũng như trên toàn thế giới, ý thức con người thiên về “phá” hơn là “xây”, những thiện chí “cảm hóa lòng người” bị “lép vế”, bị lấn át, thậm chí bị áp đảo trước những cơn cuồng nộ quở trách, chửi rủa vô tội vạ “thói đời”. Cảm hứng chủ đạo của minh triết là “xây dựng” bằng “sự cảm hóa lòng người”.
- Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây”(1960) của Kim Định (1915-1997) tác giả đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ (cổ đại và trung đại).
Tư duy triết lý phương Đông mang những đặc điểm của tư duy minh triết mà những nét tiêu biểu nhất là:
- “lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên con người làm mục tiêu (tận kỳ tính) [réaliser l’humanité] “ (xem tr.3)[3]
- những lời huấn đức minh triết được trình bày “tuy vắn tắt kiểu châm ngôn nhưng có hiệu lực muôn đời như: Pythagore, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca v.v.(H.N.H.tô đậm]” (xem tr.2)
- những nhà hiền triết “lo sống cái minh triết hơn là nghĩ đến viết ra sách vở (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.2); họ cố gắng thực hiện minh triết “không phải ngoài cõi nhân sinh mà ngay trong đời sống, trong lối cư xử, trong cử chỉ”
- Phương pháp của tư duy minh triết “là thể nghiệm, trực giác, không dùng đến lý luận, phân tích(H.N.H. tô đậm)”, “lý chứng, luận bàn” (xem tr.3), đương nhiên là không xây dựng hệ thống.
Tư duy triết lý phương Tây thiên về kiểu “tư duy triết học” mà những đặc điểm chính được Kim Định xác định như sau:
- “không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư,……. con người chỉ được bàn đến một cách phụ thuộc, hay đúng hơn bằng những phạm trù của sự vật” (xem tr.4)
- “Triết Tây hầu hết là duy niệm, nghĩa là chỉ dùng có ý niệm suông, ngoài mọi tình cảm, ngoại lý (irrationnel) và tiềm thức. Những khoản này mới được chú ý đến từ ít chục năm sau đây (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.22)
- “phương pháp: theo lối khoa học phê phán và phân tách, cố tìm ra những ý niệm độc đáo và tích luỹ sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ…”
- “mục tiêu lấy tri thức làm cùng đích.”
- trong khi minh triết “được giấu vào trong cử chỉ, thể hiện vào đời sống và trong cả sự im lặng…” thì những hệ thống triết học “kiểu nhà trường” được quăng ra, nằm “chình ình bên cạnh đời sống.”
Vài thế kỷ gần đây do sự tiếp xúc Đông-Tây ngày càng mở rộng và có chiều sâu, sự tương tác giữa triết học phương Tây và minh triết phương Đông ngày càng có hệ quả rõ rệt.
Một mặt, “triết học Tây phương hiện phát động một phong trào di cư vĩ đại: di cư từ những nền móng cũ đến định cư trên những nguyên lý mới” (tìm thấy ở minh triết Đông):
- “nguyên lý biến dịch thay vào ý niệm bản thể im lìm”
- “nguyên lý cơ thể[4] thay vào ý niệm cơ khí…”
- “Bớt chú trọng … thiên nhiên để nhấn mạnh đến thân phận con người.”
Ngoài khái niệm duy lý, có chú ý đến “tình cảm, ngoại lý (irrationel), tiềm thức” (xem tr.7)
Mặt khác, “Đông phương chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Tây phương: (1) về phương diện lý luận trình bày và chú ý đến phần lịch sử hơn, (2) đưa vào một óc phê phán được thức tỉnh và không chấp thuận dễ dàng mọi huấn điều tiền nhân, (3) dùng sự mổ xẻ phân tích dưới nhiều khía cạnh khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề”(xem tr.7). Ngày nay, muốn bàn về minh triết Đông, không thể không biết triết học Tây, phải nghiên cứu những phạm trù và lịch sử của nó.
Tiểu luận về “hai nền triết lý Đông-Tây” của Kim Định nêu lên nhiều vấn đề đến nay vẫn có tính thời sự. Tư trào phục hưng minh Triết mới đột khởi ở phương Tây cách đây mươi năm trong khi Kim Định cách đây nửa thế kỷ (bài tiểu luận được viết trong những năm 1956-1961) đã khẳng định con đường đế vương của minh triết trong lịch sử tư tưởng nhân loại thời quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai. Rất tiếc do phạm vi của chủ đề, trong bài này chúng tôi chỉ có thể nêu lên phần nào còn sơ sài vài ba vấn đề.
* * *
Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, ngay từ đầu nguồn của triết học, triết lý đã được đặt trong tương quan với minh triết[5]. Minh triết là bất cập với con người, chỉ Thượng đế mới có minh triết (sophia). Triết gia chỉ dám nghĩ đến sự vươn tới minh triết với tư cách là người quí mến minh triết, cũng có thể đây là một cách bày tỏ thái độ khiêm nhường, khỏi bị nghi oan là báng bổ, dám sánh ngang với Thượng đế. Như vậy ở đầu nguồn của triết học, minh triết (sophia) là trên-triết học (philosophia)
Triết học phương Tây phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến thế kỷ XVIII, triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những thành tựu rực rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết học. Có sự thay đổi trong tương quan giữa minh triết và triết học. Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức khoa học, triết học, cũng không có sự linh diệu thần khải của tín điều tôn giáo. So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn thì những lời bàn của minh triết xem ra tẻ nhạt, ỉu sìu, ngán ngẩm, tủn mủn, không có góc cạnh. “Minh triết - Wittgenstein, một triết gia Anh gốc Áo (1889-1951) viết - là cái gì đó nguội lạnh và do đo lẩn thẩn... Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đậy cuộc sống, làm cho ta không thấy được nó. Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên than hồng”. Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học: triết học có lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết (chỉ có lịch sử tư tưởng của một bậc minh triết). Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triết trở thành cái gì đó dưới-triết học. Theo quan niệm của nhà triết học Pháp François Jullien, minh triết không “dưới” (sous-) “triết học” mà là “hạ tầng” (infra-) cuả triết học”
Từ những năm cuối thế kỷ XX, ở phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, có một trào lưu phục hưng minh triết ngày càng rộng lớn, nhằm trả lại cho minh triết địa vị và vai trò xứng đáng của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại. Có học giả đánh giá đây là một trào lưu Khai sáng thứ hai. Chỉ cần mở trang Web “Wisdom Page”(Trang Minh triết) là có danh sách hàng trăm tiểu luận và công trình về Minh triết được giới thiệu nghiêm túc, có hệ thống, phân tích cặn kẽ. Đặc biệt từ 2005 đến 2006, trên mạng số bài mục về minh triết tăng 600%, tổng số trang Web có từ wisdom (minh triết) lên đến 17 triệu trang. Tôi đặc biệt chú ý đến mấy sự kiện sau đây:
- Càng ngày càng có nhiều học gỉa lên tiếng thay “kinh tế trí thức” bằng “kinh tế minh triết”, thay “giáo dục trí thức” bằng “giáo dục minh triết”… Kinh tế trí thức đơn thuần không có minh triềt cũng như giáo dục trí thức đơn thuần không có minh triết …đang đưa nhân loại đến bờ vực thẳm.
- Để xây dựng xã hội cần có vốn. Những năm 60 thế kỷ trước, vốn trước hết là tiền mặt. Những năm 70, vốn là trí thức. Những năm 80, có xu hướng đề cao vốn xã hội (tức là ý thức gắn bó với xã hội, với tập thể và cộng đồng). Ngày nay, có nhiều học giả đưa ra yêu cầu đặt vốn minh triết lên trên hết.
- Một công trình đồ sộ có nhan đề Wisdom Bible (Kinh thánh Minh triết) đã được biên soạn, thu thập những viên ngọc “minh triết” của những nền văn minh cổ của nhân loại: Trung Quốc (Đạo đức kinh, Đại học, Trung dung…), Ấn Độ (Kinh Upanishad, Đạo Hin đu, Kinh Phật), Trung Đông (Đạo Do Thái, Đạo Hồi, Kinh Coran), Hy-La (Platon, Epicure, Epictete [chủ nghĩa khắc kỷ], Boece [cổ La Mã]…). Điều đáng chú ý là có những văn bản của những triét gia đích thực cũng được đưa vào bộ Kinh Thánh Minh triết này (có nghĩa là sự phân biệt minh triết và triết học chỉ có tính chất tương đối)
- Đã xuất hiện những trường Đại học Minh Triết (Wisdom University). Riêng bang California có vài ba trường như vậy. Tiêu biểu nhất là Đại học Minh Triết có trụ sở ở San Fransisco. Trường này được thành lập năm 1996, chỉ đào tạo trên đại học (M.A. và Ph.D.). Đối tượng đào tạo của Trường là “những người đã có trình độ nghiệp vụ chín chắn muốn đặt mình vào một văn cảnh sống và học tập rộng lớn hơn”. Trường giúp họ “vượt qua những biên giới của hiểu biết và hành vi ước lệ đặng đi vào một cuộc sống chân chính hơn”, “có một ý thức bao trùm hơn về cái khả thể”, phương châm giáo dục của trường là việc trau dồi học vấn “trong khuôn khổ học vị trên đại học” gắn liền với “đào sâu quá trình trưởng thành của tâm linh và phát triển nhân cách”. Môn học nghiên cứu “trí tuệ bản địa” (indigenous mind) được đặc biệt coi trọng: con đường cứu nguy cho nhân loại hiện nay là “đem những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại hòa vào tri thức, minh triết và những lề lối thực hành lành mạnh về sinh thái của những nhân dân bản địa và truyền thống”.
Định nghĩa Minh triết là gì là một việc rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: “Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết”. Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000$, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia.
Tôi bằng lòng với việc đưa ra một số ví dụ.
- Thời bom Mỹ, láng giềng với hộ của tôi,có một cháu bé hơn mười tuổi, học lớp 3, một lần đi sơ tán về, cháu nói với tôi: “Bác ạ, mình cứ nói người nhà quê ra Hà nội thì đần, cháu thấy người Hà nội về nhà quê cũng đần, hôm đầu, cháu chịu, không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu biết cách”. Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt… Đây là một nhận xét minh triết. Có những công trình học thuật giầy cộp mà không có nổi một nhận xét độc đáo, sâu sắc như của cậu bé. Thường thì càng cao tuổi người ta càng hiền minh. Nhưng không nhất thiết vậy. Đối với sự phát huy minh triết, học vấn không phải là thừa. Nhưng chỉ có trình độ tiểu học vẫn có thể có những suy nghĩ hiền minh. Từ ví dụ này có thể thấy một sự khác biệt giữa triết học và minh triết: một học sinh lớp ba một dòng triết học cũng không hiểu nổi vẫn có thể nói một câu minh triết độc đáo và sâu sắc.
- Tôi có đọc một công trình lý luận tác giả viết những trang rất hay về vấn đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc dến câu của Balzac được tác giả, trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu. Giá như Mác có thêm được minh triết của Balzac chắc chắn ông suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ nghĩa Mác như chúng ta biết.
- Tôi có hỏi Nguyên Ngọc về minh triết các dân tộc Tây nguyên, anh dẫn một câu “xanh rờn” từ một bản trường ca: “Đàn ông là sấm, đàn bà mới là sét”
- Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy môt bức trướng ghi lai 14 lời khuyên của Phật, do Thượng tọa Kim Cương Từ sưu tầm. Câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”. Câu cuối cùng: “An ủi lớn nhất đời người là làm bố thí”. 14 câu, câu nào cũng hay. Tôi nghĩ bụng giá như học sinh của chúng ta ngay trên ghế nhà trường đã được học những câu này, những ý nghĩ minh triết giản đơn, không bao giờ cũ.
- “Người là muối của đất. Nhưng nếu như muối mất vị mặn, làm sao nó có thể mặn trở lại? Chẳng còn cách nào khác là đem vứt đi, để rồi người ta dẫm đạp lên…”. Không thể nào quên được câu nói đặm đà minh triết này của thánh Matthew.
- Troy Dunn có đưa ra một năng lực của minh triết: “Năng lực có những lựa chọn đúng và đưa ra những quyết định tối ưu trong khi chưa có thông tin đây đủ”. Nhận xét này giúp chúng ta nhận ra những người minh triết thường gặp trong cuộc sống.
-Trí, nhân, dũng, bộ ba phẩm gíá này hết sức quen thuộc với chúng ta, có thể xem đây là lý tưởng của minh triết. Trong lý tưởng này, trí gắn với nhân là tuyệt đẹp nhưng không có dũng thì chỉ làm cảnh thôi. Hành động ít nhiều đòi hỏi lòng dũng cảm. Mà không hành động là không có gì. Lòng dũng cảm có khi còn quan trọng hơn sự hoàn thiện trí và nhân. Trí gắn với nhân tức là gắn với những giá trị đạo đức, tinh thần. Đây là một đặc tính hết sức quan trọng của minh triết. “Kinh tế trí thức” rất hấp dẫn nhưng nguy hiểm, vì trí thức và lý thuyết một khi “lộng hành” thì sẽ gặt phăng các giá trị tinh thần, đạo đức. Do đó mới có sự đề xuất “kinh tế minh triết”. “Giáo dục trí thức” cũng rất hầp dẫn nhưng nguy hiểm. Xu thế càng ngày càng có tính chất áp đảo của giáo dục toàn thế giới là sự truyền đạt tri thức và kỹ năng hầu như trở thành mục tiêu duy nhất của giáo dục, làm lu mờ mục tiêu giáo dục những giá trị chi phối người sinh viên sử dụng những trí thức và kỹ năng đó như thế nào và làm gì. Xu thế này cũng là một nguy cơ đáng lo ngại đối với nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay hầu như không có triển vọng nào ngăn ngừa xu thế này. Trên thế giới tiếng nói của những học giả đòi hỏi cải tạo một cách cơ bản nền giáo dục hiện nay thành nền “giáo dục minh triết” còn hết sức yếu ớt. Không mấy ai quan tâm đến nguyên lý giáo dục của Gandhi được đề ra từ đầu thế kỷ trước: “Giáo dục cơ sở phải lấy minh triết và lòng từ thiện làm nền tảng.”
Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: vừa là chân, là mỹ, là thiện; vừa là tri thức, là kinh nghiệm; vừa là trí tuệ, là tâm hồn, là ý chí; vừa là vốn sống, lối sống, phương pháp tư duy…Chuẩn bị cho một định nghĩa thấu đáo và đầy đủ hơn về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là nhận thức và lối sống:
- Minh triết gắn với nghiệm sinh.
- Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà
- Minh triết thể hiện trong lối sống.
Minh triết gắn với nghiệm sinh (le vécu). Jerry Ortiz y Pino đã nêu đặc điểm này thành một yêu cầu tất yếu: “Minh triết không phải là cái gì đó bẩm sinh. Thông minh là bẩm sinh. Linh lợi là bẩm sinh. Năng động cũng vậy. Nhưng minh triết thì không. Nó chỉ đến từ sự sống, từ sự phạm sai lầm − hoặc giả từ sự nghe những người khác đã phạm sai lầm và học hỏi được ở họ…”. Yêu cầu này được tuyệt đối hoá trong một câu kinh Phật nổi tiếng: “Chớ có tin vào đức tin của những truyền thống, dù cho chúng đã được vinh danh lâu đời nhiều thế hệ và ở nhiều nơi. Chớ có tin vào một điều nào chỉ vì có nhiều người nói đến nó. Chớ có tin vào đức tin của những bậc hiền minh trong quá khứ. Chớ có tin vào những gì mà anh tưởng tượng rằng Thượng đế truyền gợi cho anh. Không tin gì hết nếu như chỉ có uy tín của những bậc thầy của anh hoặc của những nhà sư của anh. Sau khi xem xét hãy tin vào những gì chính anh đã thể nghiệm hoặc nhìn nhận là hợp lẽ, những gì phù hợp với phúc lợi của anh và của những người khác”(Siddârtha, Kâlâma sutta).
Minh triết là “trí tuệ được nhào nặn bởi kinh nghiệm”.
“Những người tốt sở dĩ tốt vì họ đã đến với minh triết thông qua thất bại”
“Cuộc sống là người khuyên bảo dích thực duy nhất của chúng ta; minh triết chưa được lọc qua kinh nghiệm riêng tư thì chưa trở thành một phần trong cốt cách đạo đức…”
Nhìn chung minh triết thuận cho sự tích hợp với nghiệm sinh hơn triết học. Chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa hiện sinh Pháp do còn gắn với nghiệm sinh nên đã có thời trở nên hết sức phổ cập. Nhưng trên đại thể, do cách tiến hành của tư duy triết học thiên về thuần lý nên triết lý dễ tách rời nghiệm sinh. Học giả Alan Nordstrom nói đến tình trạng triết học hiện thời không tích hợp với nghiệm sinh nữa, đó là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng trầm trọng của triết học hiện nay, thậm chí ông còn nói đến “sự cáo chung của triết học”! Cũng từ tình trạng này ông giải thích xu hướng trở về với Cơ sở của Minh triết. Mong rằng triết học chưa cáo chung và sự phục hưng của Minh triết tạo ra quan hệ bổ sung giữa minh triết trong bản chất gắn với nghiệm sinh và triết học do quán tính tư duy thuần lý dễ xa rời nghiệm sinh.
Nhìn chung, minh triết là một kho báu những kinh nghiệm đối nhân xử thế, “đắc nhân tâm”… Tuy nhiên, nghiên cứu minh triết không thể dừng lại ở sự tổng kiểm kê những kinh nghiệm này. Từ sự phân tích, nghiền ngẫm những kinh nghiêm này, cần đề ra những ý niệm, khái niệm của minh triết. François Jullien đã từng đề nghị xem ý niệm “mặc hóa” (“biến hóa lặng lẽ”, từ của Lão tử) như một ý niệm đặc thù của minh triết Trung Hoa.
Bàn về cách tư duy của minh triết nhiều học giả nói đến nhu cầu cân bằng. Robert Sternberg nói đến nhu cầu cân bằng giữa những lợi ích trong bản thân một cá nhân, giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng; giữa cộng đồng này và cộng đồng kia… “giữa sự thích nghi với môi trường và sự cải tạo môi trường, sự lựa chọn những môi trường mới …” Joseph W. Meeker nói đến nhu cầu đồng bộ: “có ý thức về chỉnh thể nhưng không quên những cái cụ thể, những cái đặc biệt; “bán cầu phải” thống nhất với “bán cầu trái” cũng như tư duy lô-gích thống nhất với tư duy thơ, ý thức về mình không lủng củng với ý thức về những người khác…”. Từ nhu cầu cân bằng tự nhiên có nhu cầu hài hoà: cá nhân hài hoà với xã hội, với thế giới… Đương nhiên không thể quên sự hài hoà với bản thân mình mà biểu hiển quan trọng nhất là hài hòa giữa lý và tình, hài hoà giữa trí óc (mind) và tâm hồn (soul), cùng một gốc nhưng là hai phương diện rất khác nhau: “Trí óc thiên về tìm tòi chân lý, hình thức,sự sáng sủa, sự hợp lý, hình mẫu,quy luật… Còn tâm hồn thiên về tìm tòi cái đẹp, sự cân bằng, niềm vui, hạnh phúc, mê ly, hoà bình,sự thương cảm … Trí óc khẳng định chân lý bất chấp nó đẹp hay xấu; tâm hồn cứ thấy xấu là giãy nảy, thiên về cái đẹp hơn chân lý. Trí óc khẳng định và chối bỏ;tâm hồn yêu và ghét…” (Glenn Shipley). Đặc biệt thời gian gần đây, xuất phát từ nhận định hết sức tỉnh táo “có khoảng trống đạo đức” trong đời sống chính trị, những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung quốc nêu cao chữ “hòa”. Hòa trước hết là sự hòa hợp giữa “đức trị” (hoặc “nhân trị”) và pháp trị, sự hài hòa giữa tính chính đáng đạo đức và thực tiễn chính trị. Nhằm duy trì hoặc lập lại cân bằng, hài hoà minh triết không thể không quan tâm đến cái Chỉnh thể, cái mà Lão tử gọi là Nhất (Một) hoặc Cao Xuân Huy gọi là Toàn (quan điểm chủ toàn). Thế giới hiện đại mải mê với sự phân tích, sự duy lý, sự thực dụng, có cơ mất hút cái toàn. Đồng thời trong mọi lĩnh vực, mọi bình diện, cân bằng bị phá vỡ, nghiêm trọng nhất là sự mất cân bằng giữa nhu cầu tiêu dùng của con người tăng lên với một cấp số nhân khủng khiếp và sự bất lực của con người quản lý việc khai thác hành tinh quả đất đang bị tàn phá một cách man rợ và chúng ta đều biết hiểm hoạ: khí hậu quả đất thay đổi. Phải chăng sự thức tỉnh của minh triết với nhu cầu cân bằng, hài hoà có liên quan đến sự mất cân bằng tận thế đương đe doạ sự sống còn của chúng ta trên hành tinh này? Mặt khác, sự thức tỉnh của minh triết đòi hỏi sự tỉnh táo nhìn thẳng vào những mâu thuẫn của cuộc sống, và nhu cầu cân bằng hài hòa được đặt ra trong quá trình tích cực giải quyết mâu thuẫn. Với cái thói né tránh mâu thuẫn, chữ “hòa” của phương Đông không khéo trở thành dễ dãi và dớ dẩn, chỉ tạo ra những ảo tưởng về cân bằng, hài hòa, nhiều khi chữ “hòa” được đưa ra cốt để che đậy sự lười biếng của tư duy ngại mâu thuẫn, không có tinh thần tích cực giải quyết mâu thuẫn.
█Aristote có phân biệt “minh triết lý thuyết” và “minh triết thực tiễn”. Minh triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết “suy tính những gì là tốt, là thiết thực… cho mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung” (ở đây cần hiểu “cuộc sống tốt” một cách toàn diện: cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt mà ăn, ở, mặc cũng “tốt”, không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc sống riêng, với gia đình, bạn bè và… với cả bản thân mình). “Cuộc sống tốt” được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu “minh triết” của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có “minh triết lý thuyết” thì người minh triết dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm “cuôc sống tốt” của Aristote, đó là từ “hẳn hoi”. Với từ này chúng ta có thể tóm gọn “minh triết” trong một câu:
“Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi”
“Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng” mới hẳn hoi… “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ă n hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với/do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bực. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội, Trần Văn Thuỷ đã làm sống lại phẩm chất “tử tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điếm theo nhiều chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi. Ở xã hội ta, chính họ (những người hẳn hoi, tử tế trong Đảng và ngoài Đảng) là nền tảng đạo đức của xã hội.
Ở những mục trên chúng tôi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý. Sau đây là một định nghĩa phổ thông về minh triết chúng tôi cố gắng trình bầy thật ngắn gọn.
Theo cách hiểu thông thường nhất minh triết là khôn ngoan, nhưng khôn ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để “ăn người” thì chưa phải là minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác, sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng). Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hứơng thiện, sự “liêm chính”, nhin chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ. Sự hẳn hoi có tính phổ quát, tính “liêm chính” ở người hẳn hoi thể hiên ở việc to và việc nhỏ. Bị vu oan là “làm hư hỏng thanh niên”, Socrate bị bức tử. Sắp sửa uống cốc “cần độc” thì Socrate sực nhớ có mua chịu một con gà và ông nhờ một người bạn trả tiền dùm cho ông, đây là một trong những lời trăn trối cuối cùng của ông: Socrate là người hẳn hoi trong việc nhỏ. Cũng như trong việc lớn: được tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của ông lập mưu kế cho ông chạy trốn, nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm công dân của ông là tôn trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư cách công dân hẳn hoi của ông hơn cả tính mạng của ông. Có một sự việc, nhỏ thôi, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của Hồ Chí Minh. Hoạ sĩ Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến sống với Hồ chủ tịch một thời gian để vẽ chân dung. Hoạ sĩ vẽ rất nhiều ký hoạ về bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem những ký hoạ của Dương Bích Liên không hài lòng và quyết định đưa họa sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi mà Hồ chủ tịch không hay. Đến lúc biết việc ra đi đột ngột của người hoạ sĩ, Hồ chủ tịch liền cho người đuổi theo và đưa hoạ sĩ trở về. Bác mời Dương Bích Liên dùng cơm thân mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải, một bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên). Sự việc sau đây là một sự kiện lớn. Sau Hiệp định Genève, trong một chuyến Hồ chủ tịch đi thăm Ấn Độ, trong một cuộc phỏng vấn, có một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về Ngô Đình Diệm, Hồ chủ tịch đã trả lời đại ý như sau: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông Ngô Đình Diệm, ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy… Trong cách trả lời phỏng vấn của Hồ chủ tịch, có sự khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.
Ở những phần trên, qua sự đối lập minh triết với triết lý một số đặc điểm của minh triết đã được xác định: không có lịch sử, gắn với nghiệm sinh, quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà, thể hiện trong lối sống… Còn có một cách đối lập khác, đối lập minh triết với tri thức.
T.S. Eliot (1888−1965) có lời than vãn:
“…minh triết mất rồi, chỉ còn lại tri thức, minh triết ấy đâu rồi; tri thức cũng mất rồi, chỉ còn lại thông tin, tri thức ấy đâu rồi…”
T. S. Eliot, giải thưởng Nobel năm 1948, than vãn về tình trạng suy thoái của tri thức con người trong thế giới hiện đại (thế kỷ XX): minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, tệ hại hơn nữa, đến tri thức cũng biến mất, chỉ còn lại thông tin. Minh triết khác tri thức ở chỗ nào? Minh triết cao hơn tri thức. Tri thức chỉ là tri thức. Minh triết vượt siêu tri thưc, gắn vớĩ những giá trị tâm linh và nhân văn bằng cả trí tuệ và tâm hồn. Platon, Epicure, Epictete, Boece… là những triết gia lớn nhưng nhiều trích dẫn trong tác phẩm của họ được đưa vào Kinh Thánh Minh triết, vì những tri thức và tư tưởng của họ thực sự là minh triết, chúng được gắn với những giá trị lớn không chí bằng trí tuệ mà bằng cả tâm hồn.
Minh triết do xu hướng cân bằng, hài hoà gắn với lương tri, gần với sự biết điều. Lương tri giúp những thức giả kịp thời thoát khỏi sự cuốn hút của những mê sảng lý thuyết. Sự biết điều giúp ta biết thế nào là “đủ”, đến đâu thì “dừng lại”. Do những đặc tính này, minh triết là một vị thuốc tốt ngăn ngừa những sự liều lĩnh và điên rồ[6]. Bản tính của con người là dễ nhầm lẫn và điên rồ. Trong các cuộc cách mạng, bắt đầu từ Cách mạng Pháp 1789, không thiếu gì những sai lầm giống như sự điên rồ ... Một nguyên nhân của những sự điên rồ là bệnh súng sính lý thuyết và tiếp theo là sự riết róng và hăng máu lý thuyết, những “máu” này càng nổi dậy và bốc lên cùng với sự đấu tranh phe phái. Mà như chúng ta biết “lý thuyết nó có thể chịu đựng bất kỳ sự mê sảng nào” (Maiakovxki). Trong hoàn cảnh nước ta nên chú ý đến ý kiến sau đây của Vũ Trọng Phụng: “Thật thế, tôi tin rằng Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thối nát.Tôi không tin dân An nam ta lại có nổi một điều tin ngưỡng nào, một quan niệm chắc chắn gì…”[7].Ý kiến của Vũ Trọng Phụng là cực đoan, nhưng không phảỉ không có ít nhiều minh triết trong đó. Nói về những nhược điểm của Đảng, Hồ chủ tịch nhấn mạnh: “…một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”[8]. Như vậy, có một điều chắc chắn tư duy lý thuyết không phải là chỗ mạnh của chúng ta. Đã thế thì súng sính, riết róng, hăng máu lý thuyết vừa thôi, phải quan tâm đến minh triết nhiều hơn nữa. Càng nhiều minh triết thì càng bớt mê sảng lý thuyết. Không cần nhìn đâu xa, trong các cơ quan của chúng ta, những thủ trưởng thông minh, tài ba, trình độ học vấn, lý thuyết xuất sắc vẫn có thể thất bại: họ có tất cả, chỉ thiếu minh triết, còn nơi nào những quyết định của thủ trưởng được hướng dẫn bởi minh triết, bởi lương tri và sự biết điều thì nơi ấy có sự ăn nên làm ra.
Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của lương tri và sự biết điều. Minh triết cũng không hẳn là hoàn toàn đối lập với sự “điên rồ”.
- “Vẫn có một góc điên rồ trong đầu óc của người minh triết nhất” (Aristote). Bậc hiền dẫu sao cũng là một con người, mà người nào chả có một góc điên rồ trong đầu.
- “Kẻ sống không điên rồ đâu có minh triết như y tưởng” Francois De La Rochefoucauld
- “Minh triết là điên tiết khi gặp hoàn cảnh đáng điên tiết” Jean Cocteau
- “Hãy trộn một chút điên rồ vào minh triết, quên minh triết đi đôi khi lại là hay” Horace
Tôi lấy câu trích dẫn sau cùng để kết luận mục này có bổ sung đôi chút: …quên minh triết đi, quên triết lý đi đôi khi lại là hay.
Phẩm giá minh triết ngày càng được những nhà cầm quyền và chính trị gia quan tâm. Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ, một trong những người có công đầu khai quốc Hợp chủng quốc Mỹ đã trực tiếp đặt ra vấn đề quan hệ giữa minh triết và quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn” (thư viết ngày 12/6/1815).
Trong hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt đông chính trị, Jefferson luôn đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: đại biểu quốc hội, thống đốc tiểu bang, đại sứ ở Pháp, quốc vụ khanh, phó tổng thống, 2 nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ… Và điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta”… Nhà chính trị lỗi lạc Jefferson đồng thời cũng là một nhà văn hóa xuất sắc: ông là nhà triết học, nhà giáo dục, nhà khoa học, là kiến trúc sư.là nhạc sĩ, văn sĩ… Jefferson tự xem mình là một nhà văn hóa, ông mong muốn hậu thế nhớ đến ông như là tác giả bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ, tác giả pho tượng Tự do tôn giáo ở Virginia, Người cha của Đại học tổng hợp Virginia. Và cuối cùng thì nhà văn hóa Jefferson đặt minh triết lên trên hết, trên cả triết học, khoa học, tôn giáo và những hệ tư tưởng khác…
Suy nghĩ về điều mà minh triết dạy cho Jefferson: “Càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực …càng lớn” không thể không liên tưởng đến minh triết Vô vi vủa Lão tử. Trong Đạo đức kinh,vô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và có (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan (cậy quyền lực một cách vũ đoán, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật. Hiểu như vậy thì “vi vô vi”(th. 63) là làm mà không can thiệp chủ quan, “sự vô sự” (th. 63) là làm mà “không đa sự (phiền hà)”, “không sinh sự”…và câu danh ngôn “vô vi nhi vô bất vi” có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán…) thì chẳng có việc gì là không làm”. Trong minh triết Đông Á, cách làm “vô vi” quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh tử (xem Mạnh tử, II, A,2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì “đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong… mà nong sức trưởng thành…” [H.N.H.tô đậm], đừng có làm như người nước Tống kia “lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổm lên từng cọng”. “Không hấp tấp nong sức trưởng thành…” cũng như “nhổ cỏ mọc xen đám mạ”để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi. Trong việc trị dân cũng vậy, Lão tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân. Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th.57]: “ngã vô vi nhi dân tự hóa…ngã vô sự nhi dân tự phú…” (…ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa…,ta không làm [theo cách đa sự,sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc…).Như vậy “vô vi” không có nghĩa là “không làm”. “Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!” (Nguyễn Duy Cần)[9] Vô vi là một cách làm biết nương theo cái “tự nhiên” của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão tử gần với minh triết của Jefferson nghiệm ra rằng “chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn”.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta minh triết “vô vi” sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ :
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi, cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
Dịch thơ
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
(bản dịch thơ trích dẫn từ WikiPhậtgiáo)
Đại ý 2 câu cuối của bài kệ được giảng là: “Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao”. Có thể triển khai ý 2 câu này như sau: “mọi chốn đều tắt binh đao” có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều “mở thái bình”, “thái bình” có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, ví “dân tự hóa” (bớt tham, sân, si), vì “dân tự phú” (thoát cảnh nghèo đói) …; do đâu mà “mở thái bình”? đến đây có thể láy lại câu của Lão tử, vì vua “vô vi mà dân tự hóa”, vì vua “vô sự mà dân tự phú”.
Không thể khác được nghiên cứu minh triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu tầm bổ sung những viên ngọc quý của Minh triết hiện đương rải rác khắp nơi. Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ là được sưu tầm tương đối đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc ở “mặt cắt” minh triết, vả chăng vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những dân tộc anh em. Còn minh triết của Đạo Phật (trong tâm tưởng những tín hữu phật giáo xưa và nay)? Minh triết của Thiên chúa giáo (trong tâm tưởng những tín hữu công giáo và đạo Tin lành Việt Nam)? Minh triết của đạo Hồi (trong văn hoá và lối sống của người Chăm)? Minh triết của đạo thờ cúng tổ tiên? … Nho giáo đã được nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được chắt lọc ở bình diện minh triết. Câu nói hiền minh của nho gia Ngô Thời Sĩ được dẫn ở phần trên rất tiếc là không mấy người Việt biết đến, những người hiện nay đương làm công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo không biết đến nó lại càng đáng tiếc! Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được phổ cập. Một vấn đề nữa rất đáng được quan tâm là: những viên ngọc quý trong văn hoá và lối sống các dân tộc anh em hầu như chưa được khai thác và quảng bá. Cuối cùng có một vốn minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy nghĩ, những bài học minh triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt đông chính trị và xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những doanh nhân, những người hoạt dộng tôn giáo -- họ là những người trực tiếp và thường xuyên vật lộn với thực tiễn Việt Nam Nói đến minh triết của những người làm lãnh đao quản lý, không thể quên được minh triết của những người vẫn dược gọi là “quần chúng”. Họ là những người bình thường trong sĩ, nông, công, thương và từ những suy ngẫm và kinh nghiệm làm ăn, nghề nghiệp và kinh doanh của họ có thể rút ra những viên ngọc minh triết quý.
Tóm lại, minh triết văn hóa Việt có nhiều nguồn. Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu, lan tỏa rộng trong lòng dân xứng đáng là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.
Làm tốt công việc sưu tầm và tổng kiểm kê, lần đầu tiên chúng ta có thể hình dung được đầy đặn vốn minh triết phong phú và đa dạng tàng trữ trong trí tuệ và tâm đức Việt Nam. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn hoá Việt Nam có thêm một căn cứ tham chiếu. Đây là đóng góp về mặt học thuật.
Công việc sưu tầm và tổng kiểm kê còn có tác dụng về mặt thực tiễn. Đứng trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm gương lớn và sáng, người theo đạo Phật cũng như người đạo Thiên chúa, người Ê đê Tây nguyên cũng như người Tày Đông Bắc, người Chăm cũng như người Thái … họ đều thấy minh triết của mình trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí tuệ và đạo đức chung của toàn dân tộc. Vốn này là một cơ sở tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn két tôn giáo, sự đoàn kết các dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân sĩ, nông, công, thương trong và ngoài nước. Ngoài ra, vốn minh triết to lớn này mới có đủ sức mạnh để gây ở chúng ta ý thức về minh triết. Ý thức này khiến chúng ta nhạy cảm hơn với minh triết ở cuộc sống xung quanh ta và bản thân ta. Một tác động quan trọng nâng cao sự tự giác trong đời sống tinh thần.
Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo…. Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy dược cái chung giữa ta và người, cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.
Chú thích
[1] Kim Đinh, giáo sư, triết gia, linh mục Thiên chúa giáo
[2] “Yêu tính sáng yêu hơn châu báu” (Hội thứ nhất, Cư trần lạc đạo phú)
“Gìn tính sáng tính mới hầu an” (Hội thứ hai)
“Di Đà là tính sáng soi” (Hội thứ hai)
“Gìn tính sáng, chớ lạc tà đạo” (Hội thứ ba)
[3] Số trang của bài “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” PDF trên mạng
[4] Tức là “nguyên lý hữu cơ”
[5] Khoảng hai chục năm nay, trên sách báo nước ta, từ “ minh triết” được dùng để dịch từ tiếng Pháp “sagesse”, từ tiếng Anh “wisdom” và từ tiếng Nga “mudrost”,từ này đã được dùng sớm hơn rất nhiều ở miền Nam trước đây (khoảng cuối những năm 50 thế kỷ trước)
[6] Ý này được rút ra từ hai danh ngôn:
- “Quà tặng minh triết được ban như là một vị thuốc trị sự điên rồ” St. Gregory I
- “Đặc tính của minh triết là không làm những việc liều lĩnh” David Thoreau
[7] Vũ Trọng Phụng. Truyện ngắn. N.x.b. Hội nhà văn. 1996. tr. 237-238
[8] Xem Hồ Chí Minh. Toàn tập. ST,1987,tập7.tr.782
[9] Xem Lão tử, Đạo đức kinh, Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú. N.x.b. Văn học,1992, tr.21
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânCách đây một thế kỷ, những người khổng lồ
12/05/2009Nguyên NgọcTiền... bạc
25/06/2009Linh Linh