Kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ mới
Nghĩtới Việt Namthời kỳ hậu WTO với hàng loạt kịch bản vàgợi ý, Giáosư Kinh tế David Dapice* trong buổi tọa đàm tại Trường Quản lý nhànước Kennedy (Boston, Hoa kỳ) tháng12/2004 với Đoàn của Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại Tôn Nữ Thị Ninh dẫn đầu đã chốt lại rằng:"Việt Nam cầnthúc đẩymức tăng trưởng caohơn nữa và tiếptục đổimới thể chế”? Ông vui lòng chia sẻvới bạn đọc Việt
Bản gốc: The situation: Vietnam decides it's future
Dường như Việt
Vậy thì còn gì đáng lo ngại nữa? Dường như đất nước nàyđang trên con đường phát triển đúng đắn đấy chứ. Trên nhiều phương diện thì đúng như thế, nhưng trên một vài phương diện thì không. Bài viết nàymuốn đề cập đến một số vấnđề có thể làm các nhàlãnh đạo Việt
Dòng chảy vẫn hay sự hiệu quả?
Mức tăng trưởng 7% là rất tốt, nhưng nó cần được soi xét trong điều kiện dòng vốn bên ngoài vào quá cao. Năm 2004, xuất khẩu dầu thô mang lại gần5 tỷ USD, lượng tiền gửi về qua ngân hàng khoảng 3- 4 tỷ, FDI trên 3-3,5 tỷ, ODA đạt 2tỷ. Nếu tính GDP vào khoảng 40 tỷ, thì dòng vốn từ ngoài vào chiếm khoảng trên 30%, gầnbằng mức đầu tư trong nước; điều đó cho thấy tiền lưu thông ở ngân hàng từ nguồn ngoài dầu thô rất thấp. Khó mà biết được những xi lanh này còn chạy được bao lâu, nhưng thông thường một vài trong số đó sẽ bị hỏng hóc hoặc trục trặc sau ít thời gian nữa. Với thực tế số lượng tiền lưu thông thấp và việc thiếu hệ thống tài chính, nơi có thể hướng các nguồn vốn một cách hiệu quả vào các công ty và dự án đầu tư tốt, thì đây sẽ là một trở ngại đáng kể.
Dấu hiệu rõ ràng nhất về sự thiếu hiệu quả ở tầm vĩ mô là tỷ lệ giữa sản phẩm vốn đầu tư Điều này phân biệt GDP với GDP thực tế. Với mức đầu tư chiếm khoảng 32% GDP từ năm 2000 và mức tăng trưởng 6,7% hàng năm, thì để có một đơn vị tăng trưởng, Việt Nam cần 5 đơn vị vốn trong khi ở Đài Loan hoặc Hàn Quốc vào giai đoạn tăng trưởng nhanh, tỷ lệ đó là 3 hoặc nhỏ hơn. Ví dụ, Đài Loan từ 1963 -1973 tăng trưởng hàng năm 11%, còn mức đầu tư trên GDP là 23%, có nghĩa là chỉ cần 2 đơn vị vốn để đạt một đơn vị tăng trưởng. Vậy, tại sao Việt
Câu trả lời nằm ở cách đầu tư. Đầu tư của Nhà nước chiếm khoảng 50%, tăng dần từgiữa những năm 1990. Nhiều dự án đầu tư công cộng không được cân nhắc kỹ càng, đội giá lên rất nhiều vì tham nhũng. Có nhiều con số đánh giá mức độ mất mát của cát dự ánnày, thường là khoảng 20% và nhiều hơn. Nhiều nguồn vốn vay vẫnchảy về các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém. Thị trường chứng khoán vẫn là một cơ chế bị kiểm soát chặt chẽ có lợi cho các DNNN. Phần lớnngười dân Việt Nam đổ tiền vào nhàđất với giá cả ở các thành phố lớn gần bằng hoặc bằng giá nhà đất ở Nhật Bản.Rất nhiều doanh nghiệp mới đã ra đời kể từ khi Luật Doanh nghiệp 2000 có hiệu lực, nhưng các doanh nghiệp này có tỷ lệ đầu tư trên đầu người rất thấp và ít khi sử dụng tài khoản ngân hàng.
Có nhiều người cố gắng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và lao động ở Việt
* Giáo sưkinh tế, Chương trình Việt
1 Người dịch: Nguyễn Đức Lam, Hiệu định Nguyễn Chí Dũng, nguyên bản xin liên hệ với tác giả. Những chữ trong ngoặc [] là biên dịch, hiệu đính.
2 Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đánh giá mức tăng trưởng này trong các năm 2001 – 2004 là 6,7%.
3 Một vài số tài liệu của tác giả đưa ra khác với con số chính thức ở Việt Nam (BBT).
4Thống kê về xóa đói giảm nghèo gia đoạn 1998 – 2000 và 2002 – 2003. Bộ Lao động TBXH và GTZ, Hà Nội, 2004 tr 42- 43, Định nghĩa nghèo theo chuẩn Việt
Một tương lai khó khăn?
Những thành tựu quá khứ dù ngọt ngào đến đâu cũng không thể dễ dàng nhân lên nếucứ dựa nhiều vào việc tăng đầu vào như hiện nay. Cùng với việc tăng trữ lượng vốn, sẽ khó khăn hơn bao giờ hết trong việc sử dụng vốn ròng (net capital) để tăng đầu ra mà không sử dụng công nghệ mới, một yếu tố nâng cao tính hiệu quả. Khi dân số già đi, lực lượng lao động sẽ giảm nếu số nhân lực mới từ nông thôn không được đào tạo tốt hơn. Vậy tương lai nàođang ở phía trước?
Vấnđề đầu tiên: không chỉ là lúc nào Việt
Thậm chí nếu Việt
Trong bối cảnh đó, Việt
Khả năng của Việt
Làm gì để tiếp tục thu hút nhiều FDI hơn? Trước hết, chúng ta thử tính tổng FDI thực tế hiện nay.Một số tổ chức tính cả đất đai và cả phần đóng góp của đối tác trong nước. Những tổ chức khác như IMF chỉ nhìn vào các khoản đến từ nước ngoài. Ngoài ra, hiện nay Việt
Vậy thì cái gì có thể thu hút FDI nhiều hơn? Có nhiều ý kiến khác nhau. Những ai theo cách làm của Hàn Quốc thì nghiêng về việc bảo hộ và trợ cấp của nhà nước, nhưng ở Việt
Giá đất và nhân lực rẻ là điều tốt, nhưng không quan trọng bằng tổng chi phí thấp. Những tỉnh nào cho thuê đất thấp và có nhân công rẻ nhưng tư duy và bộ máy quản lý yếu kém thì không thể thu hút các Công ty nước ngoài vốn rất cần sự quyết định nhanhchóng và có thể tin được rằng các vấn đề của họ sẽ không bị trì hoãn, không bị đòi thêm những khoản chi phí phụ, hoặc đốt đầu với sự cứng nhắc. Một hệ thống pháp luật tốt, hệ thống hành chính năng lực và thân thiện là những yếu tố rất quan trọng đối với các nhà đầu tư dài hạn. Nếu không có hệ thống tài chính địa phương cung cấp vốn cho các doanh nghiệp tư nhân, cụm các nhàmáy phụ trợ sẽ rất khó phát triển. Bởi lẽ ngoài việc đáp ứng các nhu cầu phụ trợ, nhà đầu tư nước ngoài thường cảm thấy thoải mái hơn nếu có vài doanh .nghiệp tư nhân địa phương quy mô khác nhau cùng chung những mối quan tâm và chung các sách lược với họ.
Năm 2002, có năm công ty trách nhiệm hữu hạn và bẩy công ty cổ phần tư nhân với số vốn từ 500 tỷ đồng trở lên(khoảng 33 triệu USD). Thật là quá khiêm tốn đối với một đất nước với hơn 80 triệu dân và GDP 40 tỷ USD (có 121 DNNN và 11 Công ty cổ phần nhànước có số vốn như thế). 116 Công ty với số vốn hơn 33 triệu USD có sự tham gia của đầu tư nước ngoài, nhưng chỉ một nửa trong số nàylà 100% vốn nước ngoài. Mà những Công ty 100% vốn nước ngoài nhập công nghệ mới nhiều hơn và có hệ thống quản trị hiệu quả hơn các công ty liên doanh với DNNN.
Việt
Khó thay đổi khi thuận lợi.
Tất cả những điều nói trên có vẻ dễ dàng, nhưng thực ra rất khó thực hiện. Nhiều tỉnh ở địa phương và nhiều Bộ, Ngành ở TW vẫndo những quan chức theo lối tư duy cũ kỹ điều hành. Họ tin rằng, những chính sách hiện tại đang vậnhành tuyệt vời, chúng không kéo lùi phát triển xuống còn một nửahoặc 2/3 mức tiềm năng.Họ vẫncoi khu vực tư nhân là cái gì đó không lành mạnh chứ không phải là đội quân tiên phong của nềnkinh tế quốc gia, nơi đều đặn tạo ra chỗ làm mới mang lại sự ổn định về xã hội. Nếu tình trạng này vẫnở mức nhỏ và trong khả năng kiểm soát thì vẫn còn chấp nhậnđược, nhưng nếu nó trở thành xu thế mạnh hơn, cần coi đó là mối nguy hiểm.
Điều gì sẽ dẫn đến sự thay đổi?Trước hết, việc gia nhập WTO và các tổ chức thương mại khác sẽ gây áp lực lên các doanh nghiệp thiếu hiệu quả, nhất là các DNNN. Nhưng các khoản mất mát khổng lồ từ các dự án đầu tư công, từ đầu cơ nhàđất và các nguồn thu nhập bất chính khác sẽ không bị suy chuyển mấy bởi sự kiện này. Dường như chỉ khi Việt
Chừng nàoViệt Nam có thể dư dả đôi chút về ngân sách từ các nguồn không phải dầu mỏ và duy trì mức tăng trưởng 7%/năm thì còn có thể đủng đỉnh được, nhưng không thể cứ tiếp tục theo đuổi chiến lược nửa vời mãi, một chiến lược thiếu hiệu quả và còn cho phép quan chức có thẩm quyền những khoảng trống dễ dãi. Cách đi này đạt được mục đích làm hài lòng về kinh tế nhưng lại sa vào thế bão hòa về chính trị. Cách đi này có vẻ không sai đối với những người muốn giữ đà tiến của quốc gia và duy.trì sự ổn định ngắn hạn, nhưng điều này [sự chậm trễ cải cách thể chế] có thể tạo ra thói quen xấu về thể chế, điều sẽ gây khó khăn cho việt Nam trên trường quốc tế, điều mà không phải nhiều người nhận thức được.
Một trong những lĩnh vực có thể sớm cải cách là giáo dục. Đây đang là đề tài nóng và gặp nhiều bất đồng hiện nay. Đang lẩnkhuất một số quyền lợi đặc biệt của số ít người sử dụng hệ thống này [quản lý giáo dục] để hỗ trợ thu nhập riêng. Thậm chí đã có ý kiến trên công luận chỉ trích vấn đề hệ thống này tới mức đề cập tới như một vấn đề an ninh6. Nhiều bậc phụ huynh thấy giá trị gia tăng mà hệ thống giáo dục mang lại rất thấp, cho dù họ đã trả tiền học thêm. Việc dễ dãi cấp bằng và học vị cao cấp cũng không mang lại niềm tin trong khi một số học sinh sinh viên Việt Nam đạt được những thành tích xuất sắc trong các kỳ Olimpic quốc tế về toán, lý thì mặt bằng giáo dục nói chung lại khá thấp. Yêu cầu của công luận gần đây đòi hỏi cải cách cơ bản nền giáo dục là rất đáng đánh giá cao7.Tác động về mặt kinh tế của giáo dục rất lớn, chẳng hạn đào tạo lớp nhânlực cho các công việc tạo giá trị gia tăng. Nhưng sự thay đổi ở đây đòi hỏi sự đổi mới tư duy của toàn bộ cơ chế thể chế và cơ cấu đòn bẩy khuyến khích.
Tuy nhiên, nếu đã đến lúc cải cách, thì phải nghĩ trước hết tới khuôn khổ và bước đi. Cho phép thành lập trướng tư vốn trong nước và nước ngoài để cung cấp chất lượng dịch vụ cao là một cách để thúc ép khu vực Nhà nước thiếu hiệu quả. Bên cạnh vai trò đấu tranh chống quan liêu, thì nhànước cầnthể hiện rõ vai trò trong đánh giá công bằng và chính xác năng lực và sự tiến bộ của sinh viên và thông báo cho phụ huynh. Nghĩ đến việc tách quản lý trướng học khỏi chức năngkhảo thí, kể cả việc trộn lẫnthí sinh của các trường trong các cuộc thi hàng năm cũng có lẽ là những suy nghĩ tốt để chống lại sự gian lận. Việt Nam cần quan ngại nhiều về khoảng cách với Trung Quốc trong giáo dục hơn là trong sản lượng máy móc hay nguyên vật liệu Giáo dục chính là chìa khoá của những thành tựu kinh tế và mang lại nhiều hơn sự công bằng xã hội.
Trong lĩnh vực y tế, sự lantruyền dịch HIV/AIDS đúng là đáng lo ngại. Nhưng hầu hết các chỉ số khác về sức khoẻ và dinh dưỡng đều được cải thiện, vì vậy, áp lực cải cách trong y tế không mạnh như trong giáo dục.
Tham nhũng và sự ổn định
Đảng CSVN gần đây đã tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng, nhiều kẻ tham nhũng đã bị trừng trị, một vài trong số đó giữ chức vụ cao ở thành phố Hồ Chí Minh, Petro Việt Nam, Bộ Thương mại. Điều nàycho thấy sự lo ngại trước việc tham nhũng làm giảm niềm tin đối với Đảng và Chính phủ. Khó mà áp đặt các tiêu chuẩn chuyên nghiệp hoặc hạn chế tội phạm theo cách ra lệnh kiểu "nhân danh thiêntử", nếu họ thấy nhiều nguồn tài sản đến từ những việc làm mờ ám. Những ai thu nhập một cách chính đáng thì lo ngại, trong con mắt xã hội liệu họ có bị xếp chung một rọ với kẻ làm giàu nhờ tham nhũng. Mà tâm lý này lại tác động rất lớn đến đầu tư dài hạn hay không.
Nhiều người vẫn chưa nhậnra mối liên quan giữa tham nhũng và nềnkinh tế bị điều chỉnh quá chặt (với hệ thống thuế phức tạp, với nhiều dự án do nhà nước chỉ đạo còn thiếu minh bạch). Chừng nào còn có tình trạng quan chức bị truy tố liên quan tới việc quyết định khoản vay nàocho ai, dự ánnào được cấp kinh phí, hoặc giấy phép nào được cấp, thì không thể loại trừ tham nhũng. Bước tiến lớn trong Luật doanh nghiệp đã giảm chi phí khởi nghiệp xuống rất nhiều bằng cách coi đăng ký kinh doanh là một bước cung cấp thông tin cho chính quyền, chứ không phải bắt doanh nghiệp đi xin xỏ. Nếu thuế má đơn giản hơn, các khoản vay được xem xét kỹ dưới góc độ thương mại, nếu các dự án được coi là một biện pháp xây dựng hạ tầng cơ sở cần thiết với giá cả hợp lý thì tham nhũng sẽ giảm bớt. Nhưng vấnđề ở chỗ là, làm sao thay đổi được hệ thống đòn bẩy khuyến khích để nhà chức trách thấy được việc ra quyết định một cách "đúng đắn"cũng là lợi ích của chính họ.
Con đường phía trước đòi hỏi một loạt mục tiêu mới khiêm tốn nhưng không kém phần kỳ vọng đối với Chính phủ, đó là mục tiêu hỗ trợ năng lực cho cácdoanh nghiệp và tạo ra các dịch vụ công hiệu quả chứ không phải là (nhà nước) trực tiếp làm đủ mọi thứ. Điều đó có thể đòi hỏi phải tăng các khoản trả lương cho công chức đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn nữa. Pháp quyền, một mặt làm rõ giới hạn của quyền lực, mặt khác cũng minh bạch hóa luật chơi để các thành viên khác trong xã hội thấy rõ. Cần khuyến khích báo chí vạch mặt những giao dịch "cửa sau”?Trừng phạt cũng phải đi từ nhẹ đến nặng, không chỉ hình phạt tù mà những hình phạt tước đi những khoản thu lợi bất chính cũng có hiệu quả răn đe trực tiếp. Mục đích của mọi nỗ lực ở đây là tạo ra một chính phủ có thể đẩy nhanh tiến độ phát triển bằng cách giảm chi phí đầu vào và thu hút các nguồn đầu tư hiệu quả, chứ không phải dùng ảnh hưởng của nhà chức trách để giành các dự án thiếu minh bạch cho một tỉnh thành nàođó. Có thể tham khảo cách của người Nhật trong đối xử với những quan chức chính phủ hoặc quan chức của Đảng đã có cống hiến mẫn cán, thì khi về hưu được nhận vào làm việc ở một số Công ty để có thu nhập cao hơn trong vài năm, đó là một loại đòn bẩy khuyến khích kinh tế hợp lý, rành rọt giữa công và tư để trả công cho sự trung thành và liêm khiết trong thời gian đảm nhiệm chức vụ công.Tóm lại, thiếu một cách tiếp cận có hệ thống đối với tham nhũng, trong đó phải có sự thay đổi mục đích và cách thức phục vụ của quan chức nhà nước, thì cuộc chiến chống tham nhũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Một vài quả táo thối sẽ bị loại bỏ, nhưng đa số còn lại sẽ tiếp tục tồn tại vì được bảo trợ về mặt chính trị. Nếu những kẻ lạm dụng quyền lực vẫn thấy an toàn trước sự truy đuổi của pháp luật thì họ sẽ tiếp tục lộng hành. Điều đó lại sinh ra sự bất ổn định. Một kịch bảnnữa, tạm vay mượn từ Trung Quốc, là dùng áp lực từ bên ngoài (ví dụ các hiệp định thương mại đa phương hoặc WTO) để thúc đẩycác doanh nghiệp độc quyền trong nước, kể cả các địa phương phải cạnh tranh và tăng tính hiệu quả. Dùng áp lực này trong ngắn hạn và trung hạn có thể là một yếu tố quan trọng để cuộc cải cách hiếp tục chuyển động.
Nhưng xét cho cùng thì cải cách vẫn phải chủ yếu diễn ra do áp lực từ trong nước. Cứ sau mỗi thập kỷ Việt Nam lại nhân đôi thu nhập, bởi vậy đang hình thành tầng lớp trung lưu Khá nhiều người trong số họ giàu lên nhờ sự thức thời nhanh chóng trong cảnh tranh tối tranh sáng của nềnkinh tế chuyển đổi, nhưng cũng có nhiều người hơn chọn cho mình một viễn cảnh mà ở đó ai giỏi hơn sẽ tiến xa hơn những người tiến thân nhờ vào sự quan hệ rộng. Đấy chính là nơi mà họ mong muốn gửi gắm con cháu họ. Nếu biến được viễn cảnh này thành sự thật và trở thành đạo lý xã hội thì Đảng xứng đáng giữ được lòng tin và thế hợp pháp hiện tại trong tương lai xa hôm nữa, nếu không được như vậy, những nỗi lo ngại về sự bất ổn định hoàn toàn có lý.
Tóm lại, vào thời kỳ phát triển mới của Việt Nam trong những năm tới phải tính đếnmối mâu thuẫn đặc trưng của giai đoạn này là: mâu thuẫn giữa một bên là những thành tựu nhất thời ở mức độ khiêm tốn so với tiềm năng và một bên là mức độ thành công kém hơn trong đổi mới thể chế. Khi một hay vài nguồn vốn từ bên ngoài bắt đầu chảy chậm lại, những vấn đề hiện naysẽ nổi rõ hơn, và có lẽ trong khó khăn sẽ !ó ra những lựa chọn mới thúc đẩy công cuộc Đổi mới ở tầm cao hơn tạo ra xung lực tăng trưởng mới ngay trong bối cảnh khó khăn. Tuy nhiên, nếu kịch bảndiễn tiến trong bối cảnh kinh tế thế giới không ổn định và các quan chức vẫntheo tư duy cũ, không chịu học những "độc chiêu”để ứng xử trong bối cảnh này, thì có thể Việt Nam sẽ gia nhập nhóm một số nước thành công cải cách trong giai đoạn đầu, nhưng lại đuối sức, trượt ngã do đổi mới thể chế không thích hợp.
“Thời kỳ mới"trong đầu đề bài viết không ngụ ý nhiều đến sự gia nhập WTO, mà là thời kỳ hậu WTO, bởi vì khi các điều kiện bên ngoài tác động thường xuyên và trực tiếp hơn, thậm chí tác động ngược tới sự phát triển trong nước, thì nhu cầu cải cách thể chế càng bức bách, lúc ấy năng lực phản ứng của Đảng và Chính phủ Việt
6 Xem báo cáo tiếng Việt: “một hệ thống giáo dục chất lượng thấp, tại sao ?” của các tác giả Niêm Phước và Minh Hằng, An ninh thế giới số 26, tháng 10/2003, xung quanh câu chuyện về một “Ttrường Đại học ma” có tên là “Trường Đại học quốc tế Châu Á” chủ yếu hợp thức hóa cho việc bán bằng cấp.
7 Đã tăng đáng kể số sinh viên nhập Đại học, từ ít hơn 100.000 trong năm 1992 đến trên 1 triệu trong năm 2002, tuy nhiên đầu vào tăng thì sức ép về chất lượng cũng tăng, bên cạnh số đầu vào, điều quan trọng là cần cải thiện về chất lượng.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương Hiệu