Bản chất và quy luật của đời sống tinh thần

01:00 CH @ Thứ Bảy - 11 Tháng Mười, 2014

Trong lịch sử nhận thức của loài người, do các cách nhìn và cách tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học đưa ra những quan niệm khác nhau về khái niệm "Tinh thần".

Các nhà triết học duy tâm khách quan nhìn thấy yếu tố tinh thần từ bên ngoài con người, còn các nhà duy tâm chủ quan lại nhìn thấy yếu tố tinh thần trong chính bản thân con người.

Các nhà duy vật, ngay từ thời cổ đại đã coi tinh thần là sự hoạt động lý luận. Chẳng hạn, Anxtốt đã coi hình thức cao nhất của tinh thần là tư duy về tư duy. Đến thế kỷ XVII-XVIII, các nhà triết học duy vật như Hôpxơ và Lôccơ lại coi tinh thần là sự kết hợp của các cảm giác. Triết học cổ điển Đức lại xem xét tinh thần từ góc độ ý thức và tự ý thức. Hêgen hiểu tinh thần như là sự thống nhất của tự ý thức và ý thức được thực hiện trong lý tính, đồng thời là sự thống nhất hoạt động thực tiễn và lý luận nhằm vượt qua cái tự nhiên, vượt qua bản thân mình trong quá trình tự nhận thức.

Tư tưởng triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận đúng bản chất của tinh thần : Đó là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Mác viết : "Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó" (1). Tư tưởng này cũng được Lênin khẳng định: "Đối với người duy vật, thì "cái đang tồn tại trên thực tế” là thế giới bên ngoài mà cảm giác của chúng ta là hình ảnh của thế giới đó"(2). Các nhà triết học duy vật biện chứng hiện đại cũng khẳng định rằng: "Tinh thần, theo nghĩa rộng của từ là một khái niệm đồng nhất với cái quan niệm, với ý thức là hình thức hoạt động tâm lý cao nhất; theo nghĩa hẹp của từ thì đồng nghĩa với khái niệm tư duy" (3)

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không quy cái tinh thần vào một tổng giản đơn những cảm giác; nó cũng bác bỏ quan niệm coi tinh thần là một thực thề thuần tuý độc lập với vật chất và với con người. Bởi vì, nói đến tinh thần là nói đến sự hoạt động của ý thức con người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người; đó không phải là một sự phản ánh thụ động, sao chép giản đơn về hiện thực khách quan, mà là sự phản ánh tích cực năng động và sáng tạo.

Quan điểm duy vật biện chứng về tinh thần là cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu bản chất và quy luật của đời sống tinh thần của con người và xã hội.

Theo quan điểm mác xít, tính chất đặc trưng của đời sống tinh thần là một hệ thống hoạt động mang tính xã hội, cho nên phạm trù "Đời sống tinh thần xã hội" và phạm trú "ý thức xã hội" là cùng bản chất, do đời sống xã hội quy định. Đời sống tinh thần rộng hơn ý thức xã hội. Bởi ngoài ý thức xã hội thì đời sống tinh thần còn các yếu tố tình cảm, tâm tư, mong muốn chưa phải ý thức. Trong quan hệ khác, ý thức xã hội và ý thức cá nhân luôn luôn tác động qua lại với nhau và có tính mâu thuẫn bởi sự đấu tranh tư tưởng giữa các
nhóm xã hội, sự trao đổi quan điểm, tư tưởng, luận thuyết, v.v. ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và mỗi cá nhân.

Do vậy, nghiên cứu ý thức xã hội, nghiên cứu đời sống tinh thần xã hội phải giải quyết các vấn đề: ý thức xã hội bao hàm ý thức cá nhân như thế nào? Ý thức xã hội có gì khác với ý thức cá nhân? Biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân được thể hiện trong đời sống tinh thần của con người và xã hội ra sao? Bản chất, kết cấu và sự vận động của đời sống tinh thần?

Giải quyết những vấn đề trên không phải là đơn giản. Thực tế đã có nhiều khuynh hướng khác nhau khi đề cập đến vấn đề này. Có thể nêu ra những khuynh hướng cơ bản sau đây:

Khuynh hướng thứ nhất cho rằng đời sống tinh thần của con người và xã hội chỉ giới hạn trong "cái tinh thần", đó là tư tưởng, là ý thức hoặc là tư duy, v.v.. Cách hiểu này chưa thật đầy đủ và chính xác. Bởi vì nó chỉ nhấn mạnh thuộc tính chung vả phổ biến nhất của ý thức để phân biệt ý thức với vật chất, với thực tại khách quan chứ chưa nêu được tính chất, đặc trưng của đời sống tinh thần như một hệ thống đang hoạt động của con người mang tính lịch sử - xã hội.

Khuynh hướng thứ hai hiểu đời sống tinh thần của con người và xã hội là ý thức xã hội, là cái đứng trên cá nhân hoặc xem ý thức cá nhân là đồng nhất với ý thức xã hội. Quan điểm này đã đề cập đến những đặc trưng của đời sống tinh thần trong tính hệ thống của lịch sử xã hội, nhưng lại đối lập một cách tuyệt đối ý thức xã hội với ý thức cá nhân.

Ý thức xã hội, đời sống tinh thần là một hiện tượng do xã hội quy định không chỉ về cơ chế phát sinh và phát triển , mà cả về tính chất tồn tại lẫn vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nó là một hiện tượng của xã hội, là dạng đặc thù của thực tại . Cho nên, theo chúng tôi, ý thức xã hội , đời sống tinh thần không phải là cái chung thuần tuý, mà được thể hiện trong một hệ thống: "Con người-hoạt động- giao tiếp- xã hội- lịch sử-ngôn ngữ-văn hoá" (4).

Tính hệ thống của ý thức xã hội, của đời sống tinh thần thể hiện trong tiến trình vận động và phát triển của các cá nhân kế tiếp nhau qua các chế độ chính trị -xã hội và các thời đại khác nhau trong tiến trình phát triển của lịch sử. Tất nhiên, không thể xem ý thức xã hội , đời sống tinh thần là một hệ thống phi nhân cách của những tư tưởng trừu tượng, thoát khỏi con người rồi thống trị mặt tinh thần của con người bằng tổng thể lịch sử của nó. Ý thức xã hội không phải là tổng số những ý thức cá nhân được hiểu một cách máy móc,
đơn giản. Cho nên đời sống tinh thần của con người và xã hội cũng không thể đồng nhất với ý thức xã hội như là cái đứng trên cá nhân, không bao hàm ý thức cá nhân...; nó phải được hiểu là một sự thống nhất biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân, đời sống tinh thần của xã hội và của cá nhân cùng với tính cộng đồng của các tập đoàn xã hội và toàn xã hội.

Vấn đề này đã được Mác và Enghen khẳng định: "Đời sống tinh thần liên hệ biện chứng với đời sống xã hội, phản ánh những quá trình và những mâu thuẫn xã hội , nó tương ứng với những hình thức muôn màu muôn vẻ của hoạt động xã hội của con người"(5).

Như vậy, việc xác định bản chất, cơ cấu và sự vận động của đời sống tinh thần như là sự phản ánh các quá trình vật chất trong tiến trình phát triển của lịch sử không chỉ có ý nghĩa đối với việc xác định tính.hệ thống và tính đặc thù của đời sống tinh thần mà còn thể hiện nội dung khách quan của nó.

Sự phân tích trên cho thấy, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội là không đồng nhất. Nội dung phạm trù không chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan, mà còn thể hiện tính chất xã hội của chính quá trình phản ánh đó trong đời sống tinh thần và được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa chúng. Việc nghiên cứu tính chất xã hội của đời sống tinh thần buộc chúng ta phải xác định mối quan hệ bản chất chung nhất của đời sống tinh thần thông qua những quy luật vận động.

Việc xác định này không chỉ phải làm rõ tính khác biệt về nội dung và hình thức của các yếu tố, các bộ phận cấu thành.tư tưởng khác nhau của đời sống tinh thần, mà còn phải làm rõ mối quan hệ biện chứng của hoạt động tinh thần giữa các chủ thể xã hội từ góc độ các cá nhân, các tập đoàn xã hội và toàn xã hội.

Không thể xem xét tính đặc thù của đời sống tinh thần như một hiện tượng đặc thù của cái tinh thần cá nhân, ý thức cá nhân, mà như là một hiện tượng tinh thần xã hội trong chỉnh thể toàn vẹn của nó. Tuy nhiên, không thể đồng nhất tính chất xã hội của đời sống tinh thần với quy định xã hội (của đời sống tinh thần ), với tính chất xã hội của ý thức cá nhân. Bởi vì, con người với tính cách là chủ thể của các quá trình nhận thức cá nhân không tương ứng với con người chủ thể của quá trình nhận thức xã hội. Thật vậy, Engen viết: “Đối với từng người riêng lẻ, tất cả những động lực thúc đẩy những hành động của người đó đều nhất định phải đi qua đầu óc, phải biến thành lực đẩy ý chí của anh ta. Toàn bộ nhu cầu của người đó, đều phải chuyển thành động cơ của ý muốn của người đó để làm cho người đó hành động thì tất cả những nhu cầu của xã hội công dân - dù giai cấp nào đang nắm quyền lực cũng vậy - đều nhất định phải thông qua ý muốn của nhà nước để có được giá trị phổ biến dưới hình thức những đạo luật" (6).

Sự tác động qua lại giữa tính chất, mối liên hệ xã hội và kết quả phản ánh của hoạt động tinh thần đã làm xuất hiện đời sống tinh thẩn của con người và xã hội trong một chỉnh thể toàn vẹn các quá trình hoạt động: giao tiếp-ngôn ngữ-văn hoá. Chỉnh thể đó mang tính lịch sử - xã hội, mà bản chất của nó là sự phản ánh các quá trình vật chất và hoạt động vật chất một cách tích cực, năng động và sáng tạo của con người.

Cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào khác, đời sống tinh thần của con người và xã hội cũng được nghiên cứu từ bên trong bản thân ý thức xã hội, do đó nó không thể mang tính tuyệt đối. Về kết cấu, đời sống tinh thần được chia theo "chiều dọc" thành những cấp độ và theo "chiều ngang" thành những hình thái. Ở những nét chung nhất, đó là những cấp độ cơ bản của lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Toàn bộ các hình thái của ý thức xã hội hoạt động trong phạm vi những cấp độ ấy. Đó là mối quan hệ giữa ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng như sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội như triết học, ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và khoa học. Tuy nhiên, xét đến cùng, kết cấu của đời sống tinh thần hay của ý thức xã hội đều thể hiện trong mối quan hệ với tồn tại xã hội hay đời sống vật chất của xã hội, tức là chúng đều do tồn tại xã hội hay chức năng phản ánh của nó đối với tồn tại xã hội quyết định.

Trong các tài liệu triết học mác xít (7), quy luật của đời sống tinh thần được phân ra làm ba loại phổ biến nhất:

Một là, các quy luật xã hội học chung của hình thái và sự phát triển ý thức xã hội; vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội ; tính độc lập tương đối trong sự phát triển của hệ tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung; tính kế thừa và phát triển của đời sống tinh thần...

Hai là, những mối quan hệ mang tính quy luật bên trong của đời sống tinh thần, chúng biểu hiện sự tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố khác nhau của ý thức xã hội, sự hoạt động của chúng giới hạn trong ý thức xã hội.

Ba là, những mối quan hệ mang tính quy luật đặc thù và dấu hiệu của các kiểu ý thức xã hội khác nhau trong lịch sử xã hội.

Vấn đề ở đây là phải tìm hiểu xem những qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, được thể hiện về hình thức, nội dung và vai trò của nó đối với đời sống tinh thần như thế nào? Sự phân tích ở trên cho thấy, những qui luật thể hiện nguồn gốc, động lực qui định sự phát sinh, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần chính là cái quy định quy luật của đời sống tinh thần chứ không phải quy luật của đời sống tinh thần nằm ngay trong bản thân nó, hoặc ngược lại, phụ thuộc một cách tuyệt đối vào đời sống vật chất xã hội. Trong "Hệ tư tưởng Đức", Mác và Engen đã nhận xét rằng: "Đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triền sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình”(8). Như vậy, những nguyên nhân qui định qui luật phát triển của đời sống xã hội được xác định với những nội dung cụ thể sau:

  • Một là, qui luật phát triển của đời sống tinh thần về cơ bản không nằm trong các nhân tố, yếu tố của chính lĩnh vực ấy, mà nằm trong các qui luật vật chất, trong động lực của tồn tại xã hội hay đời sống vật chất xã hội. Điều đó có nghĩa là, quy luật phát sinh, phát triển của đời sống tinh thần có nguồn gốc và bị qui định bởi hoạt động vật chất, đời sống vật chất xã hội, là một mặt của quá trình lịch sử nói chung. Như vậy, loại qui luật thứ nhất bao gồm những qui luật đời sống vật chất của xã hội. Loại qui luật này chủ yếu xác định nguồn gốc phát sinh của đời sống tinh thần. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu một cách đơn giản đời sống tinh thần chỉ xuất hiện sau khi đã có đời sống vật chất, hoặc đời sống vất chất phải xuất hiện một thời gian rồi mới có đời sống tinh thần, mà là sự xuất hiện đồng thời.
  • Hai là, không thể đồng nhất các qui luật của đời sống tinh thần với các qui luật của các quá trình đời sống vật chất xã hội. Cần thấy rõ sự khác nhau giữa một bên là các qui luật qui định sự phát sinh, phát triển đời sống tinh thần với một bên là các qui luật của chính đời sống tinh thần xét cả về nội dung cũng như hình thức của chúng. Loại qui luật này thể hiện sự tác động qua lại giữa đời sồng vật chất và đời sồng tinh thần. Nhưng vấn đề phức tạp trước hết là ở chỗ, trong mối quan hệ này không thể nói một cách đơn giản về "tính thứ nhất" , "tính thứ hai" trên bình diện triết học nói chung, mà phải hiểu tính qui định của đời sồng vật chất xã hội đối với đời sống tinh thần còn là sự tác động trở lại với tư cách là sự phản ánh và hoạt động tích cực, sáng tạo của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất.
  • Ba là, các qui luật đặc thù bên trong của đời sống tinh thần, kể cả các biểu hiện mang tình qui luật chung giữa các yếu tố, các dạng, các hình thái hay các lĩnh vực khác nhau của ý thức xã hội hay đời sống tinh thần, cũng như các dấu hiệu có tính qui luật thể hiện một cách cụ thể , đặc trưng cho một cộng đồng lịch sử đều là sự biểu hiện của những quá trình đời sống vật chất trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.

Dẫn chứng về đặc điểm của sự phát triển của những chuẩn mực pháp quyền đã khẳng định tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần xã hội. Có quan điểm cho rằng tính độc lập tương đối là đặc trưng của các quy luật phát triển xã hội và đồng thời cũng là những qui luật đặc thù của đời sống tinh thần. Thực ra, vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Bởi vì tính độc lập tương đối, cái biểu hiện các dấu hiệu chung nhất của đời sống tinh thần, đã đạt tới mức phát triển toàn diện, với tính chất xã hội của đời sống tinh thần như là một chỉnh thể thống nhất đa dạng, phong phú và toàn vẹn của nó. Đồng thời, sự khác biệt về tính chất, nội dung, vai trò và mức độ của những đặc điểm phát triển đời sống tinh thần đối với ý thức xã hội ở các thời đại khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau là có ý nghĩa to lớn.

Tóm lại, cái tinh thần không thuần tuý là "hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan", mà là "hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan" đã được "cải biến" ở trong bộ óc người.

Cho nên, đời sống tinh thần không chỉ thể hiện ở thuộc tính chung và phổ biến của nó so với “thực tại khách quan" mà phải được xem xét trong hệ thống con người-hoạt động-giao tiếp ngôn ngữ-văn hoá mang tính lịch sử -xã hội. Kết cấu và sự vận động của đời sống tinh thần một mặt, có nguồn gốc sâu xa và trực tiếp từ những qui luật của sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung. Mặt khác, kết cấu và đời sống tinh thần đó còn được thể hiện ở những qui luật đặc thù của bản thân đời sống tinh thần cũng như sự tác động qua lại giữa các quy luật này trong sự vận động, phát triển của đời sống tinh thần xã hội.


(1) C. Mác, F. Engen.. Toàn tập, t 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 35
(2) V. I. Lênin. Toàn tập, t. 18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 128
(3) Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr. 577
(4) A.G.Xpirkin. Triết học xã hội, t.2. Nxb Tuyên huấn, Hà Nội, 1989. tr. 55.
(5) Trích theo Erích Han. Về tính chất của những qui luật của đời sống tinh thần xã hội. Tạp chí “Những vấn đề Triết học", số3-1974, tr. 23-31 (tiếng Nga).
(6)C. Mác, F. Engen. Tuyển tập gồm 6 tập, t.VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.412
(7) Xem: Erích Han. Về tích chất của những qui luật của đời sống tinh thần xã hội. Tạp chí "Những vấn đề triết học", số 3-1974, tr. 23-31 (tiếng Nga).
(8) C.Mác, F.Engen. Toàn tập, t.3. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.48.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Tri thức – Tư tưởng

    09/04/2019Nguyễn Trần BạtSự nâng cao dân trí, sự tiến bộ của nhân dân là thước đo trình độ phát triển của các quốc gia, đồng thời cũng là nguồn gốc của những đòi hỏi ngày càng cao, ngày càng khắt khe hơn đối với những nhà chính trị. Họ buộc phải có những phẩm chất cao hơn, đặc biệt là phải có trí tuệ cao hơn. Thời đại của những phương pháp cai trị ngu dân đã qua...
  • Nhận thức thế giới trong thời đại thông tin

    01/02/2018Nguyễn Trần BạtCon người có thể nhận thức thế giới hay không là một câu hỏi hóc búa không chỉ với các nhà triết học mà còn với cả nhân loại. Tuy nhiên, không chỉ giữa các nhà triết học duy tâm với các nhà triết học duy vật, mà ngay cả giữa những nhà triết học duy tâm với nhau hay giữa các nhà triết học duy vật với nhau cũng có những mâu thuẫn nhất định trong việc trả lời câu hỏi này. Vậy chân lý nằm ở đâu?
  • Lịch sử phát triển chủ nghĩa cá nhân trong thế kỷ 21

    03/11/2015Nguyễn Hào Hải, Trưởng phòng Triết học Pháp, Viện Triết học...sự bùng phát mạnh mẽ của chủ nghĩa cá nhân trong thời đại ánh sáng chủ yếu vẫn nằm ở khuôn khổ của cuộc cách mạng tư tưởng. Nói rõ hơn, nó vẫn nằm ở mặt lý luận hơn là đã thực hiện trong đời sống hiện thực, nghĩa là vẫn nằm trong giai đoạn trừu tượng, trong sự sôi nổi, sự cuồng nhiệt chủ yếu diễn ra ở khâu lý luận, học thuật của các triết gia kiệt xuất phương Tây....
  • Văn hoá và Hiện tại

    26/08/2015Nguyễn Trần BạtToàn bộ đời sống tinh thần của chúng ta hiện nay là gì, nếu không phải là sản phẩm của văn hoá?
  • Sự hình thành bản thể luận văn hóa

    10/11/2014TS. Đỗ Minh HợpCó thể phân biệt ba giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thể luận - bản thể luận tự nhiên (cổ đại), bản thể luận nhận thức (cận đại) và bản thể luận văn hoá (hiện đại). Không có ý định đi sâu vào đề tài này, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sự khác nhau cơ bản giữa ba hình thức này của bản thể luận...
  • Giới hạn của nhận thức

    23/09/2014Đỗ Kiên Cường“Tự nhiên như người đàn bà ưu làm đỏm, khi thì phơi bày phần này, khi thì phơi bày phần khác trên cơ thể của mình. Và người chiêm ngưỡng kiên nhẫn đến một lúc nào đó sẽ nhìn thấy tất cả”. Đầu thế kỷ XIX, nhằm ca ngợi khả năng vô hạn của nhận thức, nhà khoa học Pháp lừng danh, hầu tước Laplace (1749-1827), được người đương thời xem là có đóng góp khoa học chỉ sau Newton, đã thốt lên nhận định bất hủ như vậy. Hỏi còn gì ve vuốt trí tuệ loài người hơn?
  • Văn hoá và Tương lai

    17/05/2014Nguyễn Trần BạtTương lai không phải là của văn hoá, tương lai là của con người với tư cách là một thực thể văn hoá. Trình độ nhận thức của con người đã đạt đến mức con người nhận thấy văn hoá trở thành quan trọng....
  • Ý nghĩa của tự do

    04/12/2013Dr. Mortimer J. AdlerTrước khi tôi thử trình bày những gì làm cho ý niệm tự do có ý nghĩa sâu xa trong đời sống con người, hãy cho tôi thử truyền đạt một số cảm tưởng về phạm vi của ý niệm này. Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, tự do có một số ý nghĩa rõ rệt. Tôi sẽ cố trình bày những ý nghĩa này cho bạn một cách ngắn gọn nhất. ...
  • Sự lẽo đẽo của tư duy

    09/01/2011TS. Nguyễn Sĩ DũngMột triết gia đã từng khẳng định: “Mọi thứ dẫn con người đến hành động đều phải đi qua cái đầu của anh ta”. Nghĩa là anh ta phải nhận thức được vấn đề trước khi phản ứng lại với nó. Nhận thức đi trước là một điềm lành, là điều kiện thuận lợi để phản ứng mạch lạc, hiệu quả đối với các thách thức của cuộc sống...
  • Hiện tượng luận của E. Husserl và sự tự sáng tạo của chủ thể tư duy

    26/02/2006Phạm Minh LăngHusserl là nhà triết học có công lớn trong việc đề ra một triết lý về hiện tượng có sức thuyết phục hơn cả. Lý thuyết của ông chỉ bàn đến mối quan hệ giữa mỗi con người với tư cách là chủ thể cá biệt với các hiện tượng bất kể là vật chất hay tinh thần đang diễn ra xung quanh một con người cá biệt nào đó...
  • Về mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận trong triết học Hêgen

    04/01/2006Nguyễn Ngọc KháVấn đề mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận đã được nhiều nhà triết học trước Mác xem xét, đặc biệt nó được nghiên cứu khá chi tiết trong triết học Hêgen...
  • Về Tự do với tư cách phạm trù của triết học xã hội

    19/11/2005Đinh Ngọc ThạchToàn bộ kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ rằng, tự do là giá trị thiêng liêng và là đặc tính bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống...
  • Tự do - Điểm khởi đầu của mọi sự phát triển

    30/09/2005Nguyễn Trần BạtKhi nói tự do là linh hồn của mọi cuộc cải cách chính là nói đến tinh thần xuyên suốt các cuộc cải cách. Cải cách kinh tế nhằm tạo ra tự do kinh tế. Tự do kinh tế đi trước để con người được nếm các thành quả sự phát triển. Chừng nào cảm nhận được vị ngọt, cảm nhận được các thành quả thu được từ tự do kinh tế, con người sẽ nhận thức được giá trị của tự do chính trị, tức là cải cách kinh tế giúp con người nhận ra lợi ích của tự do chính trị...
  • Về phương pháp luận và phạm vi của nó

    26/09/2005Lê Hữu TầngTrong những năm gần đây, ở nước ta, những vấn đề phương pháp và phương pháp luận đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Những cuộc thảo luận về phương pháp và phương pháp luận đang được tiến hành trong anh chị em làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học cũng như các khoa học cụ thể chứng tỏ rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề ấy đang trở thành một nhu cầu ngày càng bức thiết...
  • Ý chí tự do và thuyết tất định

    31/08/2005Những người phủ nhận ý chí tự do thường làm thế vì họ giải thích mọi hiện tượng tự nhiên bằng một chuỗinhững nguyên nhân. Họ cho rằng bởi vì con người là một phần của tự nhiên, hắn không thể được miễn trừ khỏi chuỗi các nguyên nhân phổ quát này. Những người ủng hộ ý chí tự do thì thường phân biệt giữa hành vi con người và mọi hiện tượng tự nhiên khác. ...
  • Thông tin xã hội và vai trò của nó trong quản lý xã hội

    24/08/2005Nguyễn Hữu Đễ (*)Thông tin xã hội có nội dung rất đa dạng và phức tạp. Đối với quản lý xã hội, vai trò quan trọng của nó được thể hiện ở chỗ; Thứ nhất, thông tin xã hội là cơ sở, điều kiện cần thiết để tiến hành quản lý xã hội: thứ hai, tùy theo chất lượng, nó có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm tốc độ phát triển của hệ thống xã hội và cuối cùng, quyết định sự thành công hay thất bại của cả quá trình quản lý xã hội.
  • Văn hóa và văn minh

    27/10/2005Theo nghĩa cơ bản của nó, thuật ngữ “văn hóa” nghĩa là sự cải thiện hay sự hoàn thiện bản chất. Nông nghiệp cải thiện đất đai và thể dục phát triển cơ thể. Vậy văn hóa con người là sự phát triển tất cả các khía cạnh thuộc bản chất con người – đạo đức , trí tuệ và xã hội. ...
  • Khôn ngoan là gì?

    18/07/2005Huy Vũ (dịch)Khôn ngoan là gì? Tôi cảm thấy mình như một giọt li ti của bụi nước lơ lửng một cách kiêu hãnh trong một khoảnh khắc trên đầu ngọn sóng và hứa hẹn sẽ đo lòng đại dương.
  • Vấn đề xây dựng 1 thế giới quan mới

    26/04/2003Minh BùiSuy nghĩ vững chắc những vấn đề Triết lý sẽ đóng góp một vai trò quan trọng với chúng ta...
  • xem toàn bộ

Nội dung khác