Triết học tôn giáo phương Tây hiện đại
Triết học với một nghĩa nào đó là sự phản tư đối với văn hoá thời đại, Triết học tôn giáo không phải là một ngoại lệ, nó là sự phản tư đối với tôn giáo với tư cách một bộ phận, một hình thức của văn hoá. Cùng với chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa phi duy lý, triết học tôn giáo tạo thành một trong ba khuynh hướng cơ bản của triết học phương Tây hiện đại. Chính vì vậy mà chúng tôi cố gắng giới thiệu những nét cơ bản của triết học tôn giáo hiện đại sau khi đã có dịp làm quen độc giả với hai khuynh hướng kia.
Trước hết, cần lưu ý rằng, đặc điểm khác biệt của triết học tôn giáo là sự ràng buộc chặt chẽ của nó với tổ chức tôn giáo (giáo hội). Sự ràng buộc này thể hiện ở chỗ, triết học tôn giáo luôn có nhiệm vụ bảo vệ giáo hội bằng con đường luận chứng cho hệ tư tưởng tôn giáo quan phương tương ứng. Chính yếu tố này qui định tính kế thừa về mặt tư tưởng của triết học tôn giáo. Những điều nói đó cũng hoàn toàn không loại trừ tính hiện đại của các vấn đề và những giải pháp mà triết học tôn giáo hiện đại xây dựng. Chúng ta sẽ xem xét triết học tôn giáo hiện đại trên hai phương diện đó.
Vào cuối thế kỷ XIX, trong thông cáo của Giáo hoàng, hệ thống triết học của Tômát Đacanh được thừa nhận là học thuyết chính thống của Vaticăng. Như vậy, triết học Tômát Đacanh đóng vai trò nền tảng mà trên đó, triết học tôn giáo hiện đại triển khai. Và, như thực tế lịch sử đã chỉ ra, việc nghiên cứu triết học Tômát Đacanh đã dẫn đến sự ra đời hệ thống quan điểm triết học của Cơ Đốc giáo hiện đại với tên gọi chủ nghĩa Tômátmới. Một số đại biểu chính của trường phái này là E.Ginsơn, Gi.Mariten, V.Brugơ, H.M.Bochenxki,
Để hiểu được triết học Tômát mới, trước hết cần nhắc lại các luận điểm cơ bản trong học thuyết Tômát Đacanh.
Triết học Tômát Đacanh là một sự kết hợp tinh xảo giữa các giáo lý Cơ Đốc giáo và triết học Arixtốt thành một hệ thống thần học thống nhất. Như chúng ta đều biết, trong triết học Trung cổ, đặc biệt là từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, hai bộ phận cấu thành này của tri thức thông thái (mà khi đó được gọi là triết học) đã được xem như là những cái đối lập, mặc dù chúng vẫn được thừa nhận là cơ sở của tri thức về thế giới nói chung. Tômát Đacanh chính là người đã hợp nhất chúng lại thành một thứ triết học không mâu thuẫn về mặt logic và qua đó, đã đặt dấu chấm hết cho các cuộc tranh luận kéo dài trong Cơ Đốc giáo.
Nhằm tìm ra phương thức khả dĩ có thể dẫn đến sự hài hoà trong thế giới quan trung cổ, Tômát Đacanh đã xây dựng một hệ thống hợp nhất vũ trụ quan Cổ đại với Sáng thế luận Trung cổ. Đương nhiên, tư tưởng chủ đạo trong đó vẫn là học thuyết về sự sáng thế của Chúa trong Thánh kinh. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất trong triết học Tômát Đacanh là vấn đề hợp nhất chân lý của lý tính với chân lý của niềm tin. Cần nên nhớ rằng, chính vấn đề này đã gây ra các cuộc tranh luận và sự bất đồng lớn nhất trong triết học Trung cổ, nó đã trở thành trung tâm của những bất đồng giữa các môn đệ trung thành của hệ giáo lý Cơ Đốc giáo mà Tômát Đacanh là người đứng đầu với những người bảo vệ thuyết hai chân lý và luôn ủng hộ nhà triết học người Ảrập thế kỷ XII là Averôie.
Cách giải quyết vấn đề này của Tômát Đacanh đã tạo thành hạt nhân phương pháp luận của triết học Cơ Đốc giáo vàhơn nữa, nó còn trở thành cơ sở cho triết học Cơ Đốc giáo trong suốt tiến trình phát triển lịch sử của trào lưu này cho tới tận chủ nghĩa Tômát mới hiện đại. Học thuyết Tômát về sự thống nhất hai chân lý đã được sử dụng làm cơ sở cho nhân học của chủ nghĩa Tômát mới, tức là cho học thuyết về con người.
Tômát Đacanh thừa nhận hai loại chân lý - chân lý của lý tính,tức là sự hiểu biết về bản chất của thế giới trần tục như nó được trình bày trong siêu hình học của Arixtốt và chân lý của niềm tín,cái được phản ánh trong hệ giáo lý Cơ Đốc giáo.
Học thuyết của Tômát Đacanh về con người là sự bình luận cho nguyên tắc này. Với học thuyết ấy, Tômát Đacanh hy vọng khắc phục được mâu thuẫn của vấn đề con người.
Khi sử dụng và lý giải các luận điểm cơ bản ấy trong học thuyết của Tômát Đa- canh, những người
Đương nhiên, việc giả định có một cơ sở bất biến như vậy là phù hợp với niềm tin tôn giáo, vì truyền thống của bất kỳ học thuyết tôn giáo nào cũng đều được tín đồ lĩnh hội như là sự kiện lịch sử có ý nghĩa tuyệt đối và do vậy, cũng là cái có ý nghĩa vĩnh hằng. Nói cách khác, sự lĩnh hội như vậy về học thuyết tôn giáo không nhưng bao hàm yêu cầu loại trừ mâu thuẫn giữa tính lịch sử và tính tuyệt đối của nó, mà bản thân mâu thuẫn này còn được lĩnh hội như là một đặc điểm khẳng định tôn giáo đặc điểm về tính xác thực của nó.Chỉ riêng niềm tin tôn giáo với tính vô điều kiện của nó cũng đã đủ thấy rằng việc lĩnh hội niềm tin này với toàn bộ tính chất mâu thuẫn của nó là điều kiện không thể thiếu của tín ngưỡng tôn giáo nói chung.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh đặc điểm đó của tôn giáo vì thiếu nó thì triết học tôn giáo hiện đại, kể cả chủ nghĩa Tômát mới, sẽ thực sự chỉ là những mánh khoé tầm thường của hoạt động tuyên truyền tôn giáo, như một số người vẫn quen nhìn nhận. Nhưng điều đó là hoàn toàn sai lầm. Giống như các khuynh hướng triết học hiện đại khác, các trào lưu triết học tôn giáo hiện đại hàm chứa nhưng tư tưởng sâu sắc về bản chất của thế giới, của con người và của nền văn hoá hiện đại' nhưng tư tưởng đã thâm nhập vào bản thân cách suy nghĩ của nhân loại hiện đại.
Ở đây có lẽ cần phải nói thêm về nội dung của khái niệm "cách suy nghĩ?”Trong hệ thuật ngữ hiện đại, người ta bắt đầu biểu thị khái niệm này bằng thuật ngữ tâmtính. Điều đó trước hết gắn liền với việc khoa học lịch sử hiện đại phân tích một đặc điểm quan trọng trong sự lĩnh hội thế giới của con người. Đương nhiên, mỗi cá nhân đều suy nghĩ
Vậy vấn đề này có ý nghĩa gì trong việc tìm hiểu triết học tôn giáo hiện đại? Đương nhiên, sự nan giải của vấn đề triết học tôn giáo hiện đại trước hết lả ở chỗ nó có ý định hợp nhất thế giới quan triết học cua các thời đại hoàn toàn khác nhau, song ý định đó sẽ là vô vọng nếu không tính đến sự khác nhau về tâm tính. Do vậy, khi nói về chủ nghĩa Tômát mới, cần phải xuất phát từ việc đánh giá sự khác nhau về cách suy nghĩ của Tômát Đacanh và các môn đệ hiện đại của ông.
“Tâm tính" trong thế giới quan Trung cổ hoàn toàn dựa trên tư tưởng và khái niệm về hành vi sáng thế. Khái niệm này được xác định trước một cách nghiêm ngặt cho lối tư duy thông thường, cũng như cho tri thức thông thái và do vậy, nó được quan niệm là xuất phát điểm của thế giới quan. Chính vi vậy mà các học thuyết triết học khác nhau ở thời kỳ này (thí dụ, học thuyết của
Nếu triết học là sự phản tư đối với văn hoá (và điều này rõ ràng là như vậy), thì chúng ta cần phải thừa nhận rằng chủ nghĩa Tômát mới là học thuyết về tính kế thừa đang tiếp diễn của văn hoá, trong đó không nhưng không khẳng định sự đứt đoạn giữa văn hoá trung cổ và văn hoá hiện đại mà, ngược lại, còn khẳng định tính kế tục của văn hoá trung cổ trong văn hoá hiện đại. Và đúng như vậy, những người theo chủ nghĩa Tômát mới không phải đặt giáo lý sáng thế mà đặt vấnđề con ngườilên hàng đầu trong quan điểm của họ: Song, cần lưu ý rằng, khi đó họ không hẳn hướng tới học thuyết Thiên Chúa giáo về con người mà chủ yếu hướng tới các học thuyết triết học hiện đại về con người, đặc biệt là tới nhân học triết học, chủ nghĩa nhân cách và chủ nghĩa hiện sinh. Mặc dù không gạt bỏ hệ giáo lý
Tán thành quan điềm của Selơ, các nhà triết học
Chấp nhận lược đồ này của Selơ, những người
Chính ở đây xuất hiện vân đề phát triển văn hoá của con người với tư cách chủ thể lịch sử. Chúng ta còn nhớ, Tômát Đacanh đã nhấn mạnh rằng sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác con người được thể hiện ở tính chỉnh thể của cá nhân. Trong quan niệm hiện đại về tâm tính, tính chỉnh thể đó là quá trình giáo dục, sinh tồn của con người. Về điểm này, những người
Như vậy, từ hệ thống triết học của Tômát Đacanh, khi đặt vấn đề tồn tại người trên một cơ sở văn hoá nhân văn, những người theo chủ nghĩa Tômát mới đã gắn chủ nghĩa nhân đạo hiện đại với các nguyên tắc nhân đạo chủ nghĩa trong giáo lý Cơ Đốc giáo và coi đó như một lẽ tự nhiên mà mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình. Với họ, những biểu hiện của tồn tại người trong thế giới không nhưng không mâu thuẫn, mà còn phù hợp với các giáo lý Cơ Đốc giáo và do vậy cần phải từ bỏ việc áp đặt các giáo lý này dưới chiêu bài trừng phạt. Cũng với cách đặt vấn đề như vậy, nhưng người theo chủ nghĩa Tômát mới coi văn hoá là con đường trần tục mà nhân loại nhằm siêu việt hoá tới các giá trị vĩnh cửu - chân, thiện, mỹ.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường