Chính trị, quản lý và cơ chế của sự lựa chọn

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult
10:34 SA @ Thứ Hai - 09 Tháng Sáu, 2014

Vì văn hoá bao trùm tất cả các mặt của đời sống, nên rất tự nhiên, chúng ta có thể nói về văn hoá của các mặt riêng biệt của cuộc sống. Tuy nhiên, tầm quan trọng của các mặt riêng biệt của đời sống không giống nhau. Lĩnh vực chính trị, chẳng hạn, đóng vai trò đặc biệt lớn, nếu như không muốn nói là lớn nhất, trong đời sống xã hội. Chính vì lẽ đó, những học thuyết có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhân loại, như học thuyết của Không Tử hay của Marx đều thực chất là những học thuyết chính trị. Và đó cũng chính là lý do khiến tôi muốn dành toàn bộ phần hai của cuốn sách này cho văn hoá chính trị.

Nhưng trước khi bàn về văn hoá chính trị, phải bàn về chính trị. Việc sử dụng và lạm dụng thuật ngữ "chính trị" khiến nó thường bị hiểu sai và bị tầm thường hoá. Nhiều khi người ta nhầm nó với triết học. Nhiều khi lại được hiểu là những chính sách của chính phủ. Thậm chí có lúc người ta đồng nhất nó với những thủ đoạn, thường là không chínhđáng, để tranh giành quyền lực. Nhưng một trong những sai lầm phổ biến nhất và cũng căn bản nhất, là sự nhầm lẫn giữa chính trị và quản lý, giữa nhà chính trị và nhà quản lý.

Chính trị, theo chúng tôi, là một loại nghề nghiệp đặc biệt, một loại hoạt động đặc biệt để tập hợp nhân dân hay cộng đồng, nhằm giải quyết các vấn đề xuất hiện trong quá trình sống và phát triển của nhân dân hay cộng đồng ấy. Trong một cộng đồng, mỗi cá nhân, tầng lớp hay giai cấp đều có những xu hướng hoặc đòi hỏi chính trị của mình với sự khác nhau nhất định. Nguồn gốc của chính trị chính là tính khuynh hướng về nhận thức của các thành viên và lực lượng trong xã hội - tính khuynh hướng phong phú và tự nhiên như tính phong phú và tự nhiên của cuộc sống. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng các khuynh hướng nhận thức chỉ trở thành chính trị khi nó phát triển đến một trình độ nhất, khi tư duy mang tính định hướng đã trở nên chuyên nghiệp ở mức độ nhất định.

Quản lý, nói một cách khái lược, là hoạt động của một cá nhân hay một tổ chức tác động lên một cộng đồng nhằm hướng hoạt động hoặc phối hợp các hoạt động của cộng đồng đó tới việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Hoạt động quản lý xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người, nhưng với sự ra đời của tư hữu và những tác nhân kích thích mang tính xã hội đối với sự phát triển, hoạt động quản lý cũng có một sự thay đổi vượt bậc. Trong một xã hội cào bằng một cách ngây thơ và đơn giản như xã hội công xã nguyên thuỷ, hoạt động quản lý chỉ có thể là tự phát và sơ khai. Kể từ khi xã hội bị phân chia thành các giai cấp, quản lý trở thành hoạt động quyết định sự phát triển của xã hội.

Như vậy, chính trị là hoạt động có tính xã hội, còn quản lý là trạng thái hoạt động nhà nước của nhà chính trị. Khi là nhà chính trị thì anh phải tuân thủ hai hệ điều chỉnh, thứ nhất anh phải tuân thủ nền văn hoá nói chung, nền văn hoá chính trị nói riêng, của cộng đồng ấy; thứ hai, anh phải phấn đấu để được lựa chọn. Còn khi nhà chính trị được lựa chọn làm nhà quản lý xã hội, anh ta còn phải tuân thủ những bộ luật điều chỉnh hành vi của công chức và những nguyên tắc của văn hoá công chức.

Dĩ nhiên, trong khi anh hoạt động và tuân thủ các tiêu chuẩn văn hoá công chức, anh ta không được đánh mất những phẩm chất văn hoá chính trị. Việc nhà quản lý nhà nước nghỉ hưu cũng không làm họ mất đi phẩm chất của nhà chính trị. Nhà chính trị tồn tại giống như một quá trình liên tục, ở đó anh tạo ra nền tảng chính trị của đời sống xã hội. Tiêu chuẩn xem xét và đánh giá công chức là kết quả hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể của nhà nước và chính phủ. Trong một số xã hội không chuyên nghiệp người ta thường nhầm lẫn việc làm chính trị với làm quan. Trong xã hội Việt Nam chẳng hạn; người ta thường gặp cách gọi lẫn lộn "công chức" với "cán bộ" hoặc sự đồng nhất hai khái niệm "cán bộ” và "đảng viên". Đó là một sự nhầm lẫn phổ biến. Chúng ta quên mất rằng đảng viên là nhà chính trị, còn cán bộ là người hoạt động quản lý nhà nước, rằng cán bộ và đảng viên là hai khái niệm buộc phải tách bạch: khi là đảng viên anh đại diện cho xu thế chính trị riêng của đảng, nhưng khi trở thành cán bộ anh đại diện cho các tiêu chuẩn hoạt động nhà nước nói chung. Sự đồng nhất hai khái niệm nhà quản lý và nhà chính trị có thể gây ra rất nhiều phiền phức cho xã hội và là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng chức quyền trong bộ máy nhà nước để bảo vệ các quyền lợi chính trị của đảng mình. Nó vô hại khi quyền lợi của Đảng phù hợp với quyền lợi của quốc gia, nhưng sẽ vô cùng có hại nếu như hai quyền lợi này không đồng nhất.

Trong mỗi quốc gia, hoạt dộng quản lý thể hiện tập trung nhất và là nhiệm vú quan trọng nhất của các cơ quan quản lý, như Chính phủ và các cơ quan Chính phủ. Với tư cách là người quản lý xã hội nói chung, Chính phủ không phải và không được phép thực hiện các nhiệm vụ chính trị chung chung, mà chỉ thực hiện những nhiệm vụ chính trị đã được pháp chế hoá.

Tất nhiên, với tư cách là đảng viên của một đảng cầm quyền, khi tham gia bộ máy nhà nước, nhà chính trị luôn luôn có xu hướng cố gắng sao cho đảng của anh ta có ảnh hưởng quyết định đến đường lối chính trị của đất nước. Nhưng đó là nhiệm vụ thường xuyên, còn nhiệm vụ trong giai đoạn công chức mà anh ta thực thi phải tuân theo các tiêu chuẩn độ xã hội quy định thông qua pháp luật. Các công chức, kể cả công chức cấp cao như bộ trưởng hay thủ tướng, đều là người làm thuê cho đất nước và nhận tiền công thông qua lương bổng mà nhân dân trả thông qua việc đóng thuế. Trong khi đó, với tư cách nhà chính trị, anh ta có thể thuyết trình, thuyết phục nhân dân chấp thuận tư tưởng của mình hay tư tưởng của đảng mình, phái mình.

Nhà chính trị có nhiều quan hệ tương tác, trong đó đặc biệt quan trọng là hai mối liên hệ, hay tương tác sau đây. Thứ nhất là tương tác với chính cộng đồng mà anh ta đại diện. Dù thuộc hệ thống nào, cộng đồng nào và đại diện cho ai, nhà chính trị đều không có quyền nói tiếng nói của riêng mình; thể hiện ý chí và nguyện vọng của riêng mình, mà là người tập hợp ý chí, nguyện vọng, tình cảm của một cộng đồng cụ thể. Và chính cộng đồng đó thiết lập nên kỷ luật đại diện. Nếu không có tính đại điện, người ta không phải và không thể là nhà chính trị, cho dù có thể có kiến thức sâu rộng về chính trị. Đại diện cho một cộng đồng cũng có nghĩa là đại điện cho xu hướng, lý tưởng và quyền lợi của cộng đồng đó.

Nhà chính trị luôn luôn không tự do, vĩnh viễn không tự do. Anh ta bị ràng buộc bởi địa vị của người đại điện - đó là bản chất và cũng là khía cạnh văn hoá số một của nhà chính trị. Nếu anh quên cộng đồng mà anh làm đại diện, nếu anh quên mất lý tưởng và quyền lợi của cộng đồng, anh đã không còn là nhà chính trị nữa.

Thứ hai là mối liên hệ của nhà chính trị với các cộng đồng mà anh đối thoại. Khi đại diện cho một cộng đồng, nhà chính trị phải giải quyết mối quan hệ với các cộng đồng khác trong những vấn đề liên quan đến quyền lợi hoặc chính in cụ thể. Nhà chính trị chuyên nghiệp là nhà chính trị có khả năng đối thoại với nhiều cộng đồng. Trong thời đại toàn cầu hoá, tất cả các quan hệ song phương đều chứa đựng các yếu tố đa phương, vì thế, hiểu biết về các cộng đồng khác hay cũng như về cộng đồng toàn nhân loại là một trong những tố chất quan trọng nhất của nhà chính trị. Những đối thoại của nhà chính trị khác hẳn đối thoại của các chuyên gia, của nhà tài chính chẳng hạn. Các chuyên gia đàm phán về các vấn đề và lĩnh vực chuyên biệt của hoạt động chuyên môn. Nhà chính ta phải biết phối hợp tất cả các chuyên gia trong bộ áo khoác chính trị, biến các yếu tố chuyên môn thành nội dung và lợi thế của các đối thoại chính trị. Vì thế, đàm phán chuyên môn hoàn toàn khác đàm phán chính trị. Mục tiêu của đàm phán chuyên môn là giành được những thoả thuận có lợi cho những lợi ích cụ thể, còn mục đích của đối thoại chính trị xa, rộng và khó nhìn thấy hơn. Đàm phán chính trị là thể hiện ý chí chính trị của cộng đồng mình nhằm tạo ra sự êm thuận lâu đài trong sự quan hệ với các cộng đồng khác để thực hiện những chiến lược và mục tiêu phát triển của đời sống chính trị. Vì thế, nhà chính trị phải hiểu biết và có thể mô tả một cách tổng hợp ý chí cộng đồng trong toàn bộ cuộc đối thoại. Khả năng đó chính là sở hữu riêng, là đóng góp của nhà chính trị. Và cái đảm bảo cho thành công của đàm phán chính trị chính là nền tảng văn hoá chính trị của anh ta.

Mặc dù mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội đều có xu hướng chính trị của mình, nhưng không phải ai cũng là hoặc cũng có thể là nhà chính trị. Chúng ta vừa nói rằng nhà chính trị là đại điện của một cộng đồng. Điều đó diễn ra như thế nào, hay nói cách khác, tại sao anh ta lại trở thành người đại diện? Tại sao anh ta lại được chọn để giải quyết những vấn đề của cộng đồng và thay mặt cho cộng đồng để giải quyết quan hệ với một cộng đồng khác?

Theo chúng tôi, đó chính là, chất lượng tư duy và nghệ thuật hành động của nhà chính trị. Nếu một người muốn trở thành nhà chính trị, tức là muốn trở thành đại điện của một cộng đồng, anh ta trước hết phải đại điện một cách suất sắc chế phẩm chất của một cộng đồng ấy. Anh ta phải là người đại diện cho những năng lực suất sắc nhất cũng như thiện chí và ý chí của cộng đồng. Đấy chính là tố chất đại điện.

Khi đã có tố chất đại diện, để được lựa chọn, anh cần phải có tố chất thứ hai, đó là tố chất đối thoại. Đối thoại ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm cả những hình thức hoà bình lẫn những hình thức sử dụng vũ lực, chẳng hạn chiến tranh. Kim von Clausewitz, nhà quân sự Đức có nói một câu chí lý rằng chiến tranh chính là sự kế tục, hay sự nối dài, của chính trị.

Muốn đối thoại cần phải hiểu đối tượng đối thoại, nói cách khác là phải có một kiến thức cơ bản về văn hoá của đối tượng cùng những tiêu chuẩn văn hoá chính trị của cộng đồng mà anh ta đại điện. Thước đo phẩm chất của nhà chính trị chính là các tiêu chuẩn văn hoá để nhân dân lựa chọn nhà chính trị. Điều này đã được Tổng bí thư ĐCS Trung Quốc Giang Trạch Dân đưa ra. Giang Trạch Dân nói đến người cộng sản, tức nhà chính trị với tư cách là một người cộng sản, nhưng ta cần phải khái quát hoá tính đại diện trên bình diện văn hoá của nhà chính trị theo nghĩa khái quát.

Đại diện là một tiêu chuẩn, nhưng đồng thời cũng là một quá trình. Bởi đại diện không phải là cái hễ anh muốn là có được. Anh chỉ trở thành người đại diện khi được cộng đồng thừa nhận làm đại điện. Ở đây, chúng ta đã tiệm cận đến một khái niệm vừa nguy hiểm, vừa tế nhị nhưng vừa cấp tiến, khái niệm dân chủ về chính trị: nhân dân là kẻ có toàn quyền lựa chọn nhà chính trị. Và để trở thành nhà chính trị, anh phải phấn đấu để được nhân dân lựa chọn.

Cần lưu ý rằng giữa sự lựa chọn nhà chính trị và lựa chọn nhà quản lý có sự khác nhau về bản chất, tuy rằng giống nhau về hiện tượng. Nhà chính trị không có nghỉ hưu, không có nhiệm kỳ, nhưng có thể bị loại khỏi đời sống chính trị một cách tự nhiên khi anh ta không còn đủ các tố chất của nhà chính trị. Còn người quản lý thì có về hưu và có nhiệm kỳ.

Vì thế, sự lựa chọn nhà quản lý được thực hiện dựa vào năng lực của anh ta trong việc hoàn thành các nhiệm vụ đã được pháp chế hoá, còn sự lựa chọn nhà chính trị đưa vào năng lực đại diện, nền tảng văn hoá và cả sự hấp dẫn của anh ta đối với cộng đồng.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung khác