Khủng hoảng giáo dục là do không có triết lý giáo dục
Ban đầu tôi có ý định trao đổi với TS Lê Vinh Danh về những hoạt động của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, nhưng ông lại thu hút tôi vào một hướng khác, đó là những suy tư của ông đối với nền giáo dục nước nhà.
- Ông cho rằng khủng hoảng lớn nhất của hệ thống giáo dục VN trong vòng 60 năm qua là việc không chỉ ra được triết lý của nền giáo dục. Ông nói:
- Nhà Nguyễn (1802-1945) đã có những nỗ lực nhất định để xây dựng một triết lý cho nền giáo dục. Nhưng cuộc chiến chống ngoại xâm với người Pháp và sự không chủ động tiếp nhận nền văn minh cơ khí của phương Tây khiến việc này không thành. Cho đến ngày nay, vẫn chưa có quan điểm nào tốt hơn triết lý giáo dục những con người biết sống cân bằng với trời đất và đồng loại của các vị hàn lâm nhà Nguyễn.
Những năm chiến tranh vệ quốc, miền Bắc cũng đã biến mục tiêu thành triết lý: Giáo dục vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Trong vòng 30 năm kế tiếp kể từ 1945, triết lý này đã tỏ ra phù hợp. Nhưng tiếc rằng những năm sau 1975 mục tiêu tồn tại của triết lý này không còn phù hợp nữa.
Khi nước nhà thống nhất, cơ sở để xây dựng một quan điểm triết học mới cho nền giáo dục hoàn toàn thuận lợi. Nhưng chúng ta vẫn chưa ra khỏi những mục tiêu ngắn hạn, sự vụ. Ngay cả mục tiêu có tính dài hơi cho nền giáo dục cũng không thống nhất, đừng nói là triết lý. Đó là hiện trạng khủng hoảng lớn hơn hết trong tất cả các khủng hoảng.
- Nhiều nhà nghiên cứu lên tiếng về xây dựng một nền triết lý giáo dục VN nhưng chưa thấy ai nói cụ thể triết lý đó là gì, ông có thể cho biết quan điểm riêng của mình?
- Tôi xin đề cập những ý cốt lõi, có liên quan đến vấn đề triết lý trong giáo dục. Chúng ta hô hào quá nhiều về “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” đến nỗi ngày nay, khi đọc cụm từ bản sắc văn hóa trên báo, trên các biểu ngữ, báo cáo, diễn văn là tôi “dị ứng”.
Theo tôi, cái có thể gọi là bản sắc văn hóa của một dân tộc phải là cái đặc trưng, truyền thống riêng mà chỉ có ở dân tộc đó, không có ở dân tộc khác, hoặc nếu có, cũng chỉ mức độ mờ nhạt, trong khi ở dân tộc kia thì là điểm chủ yếu. Khi đã hiểu đúng chữ “bản sắc”, chúng ta sẽ thấy rằng tinh thần yêu nước, căm thù giặc, lao động cần cù, chịu khó, sáng tạo, bất khuất... không thể gọi là “bản sắc” bởi dân tộc nào cũng có đặc điểm này.
Khi làm những nghiên cứu so sánh, nghiên cứu đối chiếu hòng chỉ ra đâu là những đặc trưng văn hóa hay triết lý tồn tại chỉ có ở dân tộc Việt mà không có, hoặc có mờ nhạt hơn ở dân tộc khác, ta sẽ chỉ thấy rằng văn hóa duy tình và triết lý tồn tại thích nghi là bản sắc đặc biệt nhất.
- Có lẽ chưa ai cho rằng “Văn hóa duy tình” và “Triết lý tồn tại thích nghi” là bản sắc đặc biệt nhất, như vậy văn hóa và triết lý này liên quan như thế nào đến triết lý giáo dục, thưa ông?
- Vì sao “Thích nghi” là triết lý tồn tại đích thực của dân tộc Việt? Nếu đọc suốt kho tàng văn học VN, sẽ thấy rằng người Việt hoàn toàn không phải là một dân tộc duy ý chí. Những sản phẩm của sự duy ý chí trong tư duy, trong cách nghĩ, nếu có đâu đó, trong những thập niên qua, thì chỉ là sự sao chép hay học tập thô thiển ngoại lai. Phù hợp với thiên nhiên là điểm nổi bật trong tất cả các sinh hoạt của cha ông chúng ta: “Tháng chạp là tháng trồng khoai, tháng giêng trồng đậu, tháng ba trồng...”.
Tinh thần “vắt đất ra nước, thay Trời làm mưa” vốn không hề có trong tâm tưởng người Việt qua bao đời bởi nó vô cùng duy ý chí. Vì không duy ý chí, VN hầu như không có nền văn hóa vật thể đồ sộ theo nghĩa quy mô. Các vua chúa VN không muốn tổn hao sức dân cho những công trình mà họ không tin là sẽ tồn tại trường cửu, do bản thân họ không tin con người có thể trường sinh mà không thành tro bụi với thiên nhiên.
Khi vương quốc Phù Nam xây Angkor Watt vào thế kỷ thứ 9, thì nhà Lý chỉ xây Chùa Một Cột mà quy mô như một cái am. Không thể nói rằng các vua nhà Lý không thể huy động nguồn lực quốc gia cho việc xây những đền đài, kiến trúc có giá trị tương tự, nhưng dân tộc này không muốn tốn hao sinh lực trời đất để phục vụ ý đồ một người. Vì trọng sinh lực trời đất, họ chỉ muốn sống thích nghi với trời đất.
Trong chiến tranh, có thể nhiều người không định nghĩa được lòng yêu nước, nhưng thương mồ mả ông bà, mảnh vườn, đám ruộng và công sức cha ông bị tàn phá, họ sẵn sàng đi đến cùng với cuộc chiến. Đó là văn hóa “Duy tình”. Trong thời bình, văn hóa duy tình tiếp tục thể hiện khi ứng xử, quan hệ. Có thể có chỗ đúng, có chỗ sai, nhưng nó là cơ sở nền tảng nhất còn lại qua hơn 4.000 năm. Cho nên, một nền giáo dục đi đúng hướng trước hết phải là nền giáo dục vì con người.
Một khi đã vì con người, nền giáo dục này phải biết giữ gìn những giá trị có tính bền vững để bảo vệ và hoàn thiện con người. Muốn thế, nó phải được xây dựng trên nền tảng những bản sắc bất diệt nói trên. Giáo dục VN phải là nền giáo dục vì con người. Đó chính là sự thể hiện văn hóa duy tình. Chỉ có trọng tình mới trọng con người hơn tất cả mọi mục tiêu khác.
Một nền giáo dục vì con người là nền giáo dục mà những gì đúng với con người phải được thể hiện đầy đủ trong hoạt động giáo dục, và chỉ giáo dục điều đúng cho con người. Khi hệ thống giá trị hay quan niệm đúng-sai thay đổi, chúng ta có nội dung giáo dục thay đổi chứ triết lý không thay đổi.
- Triết lý giáo dục có thể được xem như sợi chỉ đỏ dẫn dắt nền giáo dục nước nhà, nhưng triết lý đó phải được thực hiện bằng những công việc cụ thể, ông có thể phân tích thêm về điều này?
- Trước hết, xây dựng bằng được triết lý cho nền giáo dục để hệ thống giáo dục này không đi sai đường. Tiếp đến là phải xây dựng bằng được lòng tin của dân vào chính sách giáo dục. Thứ ba, những gì không phù hợp với con người không nên có trong giáo dục. Một nền giáo dục vì con người chỉ giáo dục những gì con người cần, những gì đúng với con người. Cần bắt đầu từ những việc rất nhỏ nhưng quan trọng để người dân tin như giảm bớt số tiết những môn học quá hàn lâm trong đại học, giảm tải các môn học trong chương trình phổ thông và khuyến khích học sinh tự học.
Giáo dục phổ thông cần được điều chỉnh ngay để hướng đến xây dựng tinh thần nhân bản và lối sống công dân cho các em học sinh. Nội dung đào tạo phải coi trọng giáo dục ý thức phục tùng những quy tắc của cộng đồng, lòng yêu thương bố mẹ, ông bà, tôn kính thầy cô. Khi mà những điều cơ bản này không được điều chỉnh để nhấn mạnh như hạt nhân của chương trình, nền giáo dục đó không thể là nền giáo dục vì con người và sản phẩm của nó không thể là những con người có đạo đức cân bằng.
Thứ tư là bãi bỏ hoàn toàn những hoạt động có tính hình thức trong giáo dục. Đó là các căn bệnh tiêu cực trong thi cử, thành tích ảo, báo cáo láo mà gốc của nó là do sự thiếu trung thực của ngành xuất phát từ hệ quả của một nền giáo dục không vì con người. Tiếp đến là kiên trì đấu tranh để cải cách tiền lương sao cho người giáo viên tiểu và trung học có thể tồn tại ngay thẳng bằng chính sức lao động của mình. Lincoln từng nói rằng: “Một chính quyền không nuôi nổi công chức của mình bằng đồng lương thì không có tư cách và thẩm quyền xét xử công chức ấy khi họ tham nhũng”. Thứ sáu là phân luồng học sinh vào giáo dục nghề nghiệp bằng chính sách tài chính.
Hãy chấm dứt những hô hào phân luồng có tính khẩu hiệu chính trị. Thay vào đó, trong khi để các trường đại học hoàn toàn tự chủ về tài chính và bắt người học phải tự trang trải chi phí cho dịch vụ họ hưởng, Bộ GD-ĐT dành những khoản ngân sách có thể cho việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị các trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, mở rộng học bổng hay tín dụng học bổng cho hệ thống này, thúc đẩy các trường gắn kết với doanh nghiệp để củng cố kỹ năng nghề cho học sinh và xúc tiến việc làm. Thứ bảy là bãi bỏ những điều khoản có tính quy định trần học phí tại các trường đại học. Việc thu bao nhiêu, thu như thế nào với từng lớp học, đối tượng đào tạo… phải để tự các trường quyết định.
- Ông cho rằng giáo dục trước hết là vì con người, như vậy đối tượng chính là người học phải được thụ hưởng điều gì thật cụ thể từ triết lý này?
- Các trường đại học phải có kế hoạch điều chỉnh môn học, thay đổi phương pháp đào tạo để làm sao sinh viên ra trường ngoài kỹ năng nghề nghiệp và tri thức, họ còn được đào tạo những vấn đề cơ bản nhất về ứng xử cộng đồng, tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân.
Việc này không thể khoán trắng cho giáo dục trung học khi mà 4 năm ở đại học tác động quan trọng đến phong cách và hành vi của người học hơn là 12 năm. Chúng ta có thể có một nền kinh tế có mức tăng trưởng nhanh, nhưng không thể có một xã hội văn minh, đồng thuận nếu những công dân trưởng thành chỉ biết tích cực hay điên cuồng kiếm tiền và kiếm bằng mọi cách ít tốn chi phí nhất.
Có vẻ như xưa nay dạy làm kiếm tiền dễ hơn dạy làm người; và chỉ có thể nói như vậy mới giải thích được vì sao bộ phận giới trẻ ngày nay khá thành đạt, nhạy bén, tiếp thu nhanh, chịu khó trong công việc, nhưng ứng xử xã hội không tốt, không có khả năng sống chung tốt vì ích kỷ và nhất là không biết cách giải quyết các bất đồng xã hội xảy ra xung quanh một cách tối ưu. Xã hội toàn những công dân như vậy không thể là một xã hội lành mạnh.
- Xin cảm ơn ông!
TS LÊ VINH DANH Sinh ngày: 30/11/1963, tại Quảng Ngãi; Học đại học và cao học tại Đại học Tổng hợp TPHCM; Thực hiện Luận án tiến sĩ tại Đại học Chulalongkorn, Bangkok, Thailand về Chính sách tiền tệ; Nghiên cứu Sau tiến sĩ, theo Chương trình học bổng Fulbright tại Hoa Kỳ về Chính sách công. 1991- 1994: Giảng dạy tại Đại học Tổng hợp TPHCM; 1994- 1996: Cán bộ biên chế của Đại học Bách khoa TPHCM; 1996-1998: Giảng viên Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia TPHCM; 1999 đến nay: Phó hiệu trưởng, Hiệu trưởng Đại học Tôn Đức Thắng, Tổng liên đoàn lao động VN; Tham gia giảng dạy trong và ngoài nước, 2007: được công nhận giáo sư; 2008 được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú; Thành viên Hiệp hội Kinh tế Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Khoa học xã hội và Chính trị Hoa Kỳ. |
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu Nhơn