Giáo dục Việt Nam khoác gánh nặng lên vai trẻ thơ
Cách đây không lâu báo chí đưa một cuộc khảo sát ngẫu nhiên những chiếc cặp sách của học sinh do bộ GH – ĐT tiến hành ở ba trường tiểu học tại Hà Nội. Chiếc cặp nặng nhất là của một học sinh lớp 4 ( 4,8kg). Trong khi đó , quy định của sở GD – ĐT Hà Nội là 2,7 – 3 kg. Chiếc cặp sách không chỉ là một vật vô tri vô giác nữa . Nó đã trở thành câu chuyện của cả một nền giáo dục.
Thời tiểu học, tôi đã rất thích bài thơ đã được phổ nhạc của nhà thơ Minh Chính:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng thơm đồi vắng
Nước suối trong thâm thì
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi”
Niềm vui đến trường của đứa trẻ vùng núi sao mà sáng trong, ngân nga và dịu dàng đến vậy. Cái niềm hạnh phúc nhỏ tưởng giản dị như là lẽ tự nhiên giờ đã trở thành giấc mơ không có thật của những đứa trẻ thành phố.
Nhiều năm nay, Bộ GD - ĐT trăn trở, cặm cụi tổ chức lên xuống bao cuộc hội thảo bàn về một triết lý cho nền giáo dục. Nhà văn Nguyên Ngọc, một người vốn tâm huyết với vấn đề này, không ngần ngại bày tỏ: "Bàn tới bàn lùi, tôi vẫn không sao hiểu được vậy thì cái gọi là triết lý giáo dục là gì, thậm chí càng thấy rối mù thêm". Theo quan điểm của ông, một nền giáo dục lành mạnh là nền giáo dục giúp cho con người có khả năng lựa chọn, mạnh mẽ ý chí tự mình lựa chọn, dám hành động theo lựa chọn của mình và chịu trách nhiệm sâu sắc về lựa chọn đó, một lý do nào đó, mà những người có trách nhiệm né tránh vấn đề gốc này, thì mọi bàn cãi về cái gọi là triết lý giáo dục và từ đó là những việc cụ thể khác, dù có được diễn tả bằng những ngôn từ cao sang đến đâu đều là vô nghĩa.
Giáo sư Hồ Ngọc Đại, định nghĩa về một triết lý giáo dục, đơn giản và gọn gàng hơn, đó là niềm hạnh phúc được đến trường của những đứa trẻ. Mọi mục đích, biện pháp, chương trình, tổ chức, điều hành, học phí... của giáo dục đều phải phục vụ mục đích tối thượng này. Quan điểm này có nét tương đồng với suy nghĩ của bộ óc lớn nhất thế kỷ XX, Albert Einstein: Động cơ quan trọng nhất trong học tập và trong đời sống chính là niềm vui có được qua công việc, sự hạnh phúc khi gặt hái thành quả và khi nhận thức được giá trị của thành quả đối với cộng đồng. Khơi dậy và củng cố sức mạnh tâm lý này trong thanh niên là nhiệm vụ quan trọng nhất của học đường.
Hiện nay, trẻ em chúng ta có còn niềm hạnh phúc khi được đến trường?
Hãy nhìn chúng mỗi sáng bước ra khỏi nhà với những chiếc cặp nặng trĩu vai. Trên đường đến trường mỗi sáng và trở về nhà mỗi chiều, trẻ em thành phố mệt mỏi vì kẹt xe, tắc đường, khói bụi; Trẻ em nông thôn rủi ro vì thiên tai, bão lũ, tai nạn giao thông... ở trường là những chuỗi ngày mệt nhọc triền miên hết học thật lại học thêm nhằm kiếm một bảng điểm đẹp với những danh hiệu tiên tiến, xuất sắc rạng danh người lớn. Việc học vì điểm bức bách đến nỗi có hiện tượng trẻ em mẫu giáo lớn dã phải vào những lò "luyện chữ" suốt ba tháng hè để không bị tụt hậu khi bước vào lớp 1. Ở nhà, quanh mâm cơm với cha mẹ là câu chuyện về bạn này đạt giải cấp quận, bạn kia đạt giải cấp thành phố. Ngay cạnh nhà tôi, có một cô bé là học sinh trường Chuyên đang ôn thi đội tuyển quốc gia. Em học ngày học đêm, hăng say đến nỗi phải cho cơm vào một bát loa riêng để tranh thủ vừa ăn vừa đọc sách. Sự việc này đã được mẹ cô bé đem đi kể khắp xóm với một niềm tự hào sung sướng vì sự chăm học của con gái mình. Trong rất nhiều lần gặp gỡ của các bậc phụ huynh khách bạn thử để ý mà xem bao giờ chuyện con cái thành đạt, đoạt giải này giải kia, thi vào bộ này bộ nọ, sắm ô tô, trúng chứng khoán, xây nhà to, lên chức lên quyền... cũng được "khoe" ra như là niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ. Niềm hạnh phúc đó hoàn toàn chính đáng, bồi là cha mẹ nào chẳng muốn cho con cái được sung túc, no đủ. Nhưng họ không ngờ rằng, những mong mỏi được cho là chính đáng đó lại đang là gánh nặng khủng khiếp đè lên đôi vai nhỏ nhoi của những đứa trẻ. Cộng thêm tâm lý hư danh, trọng hình thức, sính bằng cấp của số đông xã hội, dù muốn hay không muốn, xuất sắc, giỏi, khá phải là thang giá trị tuyệt đối để học sinh hướng tới, nếu không thì ra bán rơm hót rác, quét đường "ê mặt”.
Để trẻ em phải đeo cặp quá nặng, vô trách nhiệm của cha mẹ và xã hội. Nhưng cái trực tiếp và trước tiên tạo nên gánh nặng này, là bộ sách giáo khoa hết thêm vào rồi lại bỏ bớt; là khối kiến thức khổng lồ được nhồi nhét, là những giá trị bất biến, những chân lý tuyệt đối được định sẵn. Tiêu chí kiểm tra đánh giá xếp loạn thi cử cứ nhằm theo chương trình và khối lượng kiến thức đồ sộ này, nên học sinh không còn lựa chọn nào khác bằng cách ra sức học thuộc lòng, nhồi nhét, đối phó để hôm nay được điểm chín, điểm mười rồi ngày mai quên sạch. Và vài chục năm trở lại đây, giáo dục Việt Nam đã cho ra lò hàng vạn học sinh "giỏi giết rồng" nhưng không thể tìm được rồng mà giết . Còn ờ không ít các giảng đường đại học, sinh viên ngày càng trở nên thụ động với lối học "thầy đọc, trò chép" với những cuốn giáo trình cổ lỗ cập nhập kiến thức từ 40 năm trước.
Hậu quả nhãn tiền của những vấn nạn này là những cái giật mình khi biết rằng chỉ có 40/2000 sinh viên học tại các trường Đại học hàng đầu của Việt Nam đủ tiêu chuẩn làm việc cho Intel. Và nếu nhìn vào sản phẩm đào tạo thì khoảng phân nửa sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. (Theo điều tra của Hội Sinh Viên Việt Nam). Trước nghịch lý mỉa mai của một quốc gia được biết đến với lực lượng lao động trẻ đông đảo, thông minh nhưng lại thiếu đến trầm trọng những nhân lực có chuyên môn cao. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đã "mổ xẻ": Một trong những "nút cổ chai" thắt buộc tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta hiện nay và trong tương lai chính là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Câu trả lời dứt khoát là giáo dục Việt Nam phải hội nhập quốc tế theo những tiêu chí và chuẩn mực mà các nước khác đã chấp nhận .
Vậy thì những tiêu chí và chuẩn mực mà các quốc gia khác đã chấp nhận là gì? Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều ý kiến, giải pháp của các chuyên gia và trí thức lớn đóng góp cho Bộ GD-ĐT qua những hội thảo, văn bản kiến nghị. Nhưng dường như, những thay đổi gần đây của Bộ GD-ĐT vẫn chỉ mang tính chất kỹ thuật với những mục tiêu định lượng như phổ cập internet trong các trường học, tăng số trường đào tạo liên kết quốc tế, đạt bao nhiêu thạc sĩ/ tiến sĩ vào năm X, Y...
Giáo dục là tấm gương phản chiếu của bộ mặt xã hội, điều này đã được thực tiễn khẳng định. Nhưng chừng nào, giáo dục không tác động đến sự thay đổi của những con người tạo nên xã hội đó và ngược lại, thì mọi cuộc bàn luận, cải cách, chống rồi xây đều là vô nghĩa. Và nỗi thất bại đau đớn, chua xót nhất, chính là không thể tạo nên niềm hạnh phúc đến trường nhỏ nhoi cho con em mình.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí ThànhVề tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
09/05/2008Phong Doanh“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005