Kẻ sĩ xưa và nay
“Kẻ sĩ” là từ dùng để chỉ những người thuộc tầng lớp trí thức trong lịch sử. Từ “kẻ” hoàn toàn là tiếng Việt, tiếng Nôm thường viết là 几, đó là chữ “kỷ” của Hán tự đọc theo âm Việt mà thành. Gọi là “kẻ” không hề biểu thị ý gì khinh rẻ cả (1). “Sĩ” là từ Hán - Việt, chữ Hán viết 士. Thời cổ đại, chữ “sĩ” vốn dùng để chỉ, quân đội, lực lượng vũ trang, thường gọi là võ sĩ, chứ không phải dùng để chỉ “trí thức” chỉ “văn nhân”. Thời cổ đại ở Trung Quốc, nước lớn (đại quốc) có “ba quân”, nước vừa (trung quốc) có “hai quân”, nước nhỏ (tiểu quốc) có “một quân”. Mỗi quân có một nghìn cỗ xe, mỗi cỗ xe có mười “sĩ” thống lĩnh, ngoài ra có nhiều lính gọi là tốt tùy tùng (2). Bây giờ ở quân đội còn gọi là “sĩ quan”, “binh sĩ”.
Về sau “sĩ” thông thường dùng để chỉ “văn” chứ không chỉ “võ” như thời cổ đại. Tại sao lại như vậy ?
Lý do như sau : thời cổ đại, nhà nước có hai việc quan trọng vào bậc nhất, đó là tế lễ trời đất và hoạt động quân sự (Quốc chi đại sự, duy tự dữ nhung). “Sĩ”, có nghĩa là người được giáo dục, huấn luyện chủ yếu là về quân sự, về sau do tình hình thay đổi, nên nội dung giáo dục, huấn luyện lại thiên về văn. Do đó, cùng là “sĩ” nhưng thời xưa chỉ quân nhân thời nay lại chỉ “tri thức”, khác nhau một trời một vực. Hiện nay, “kế thừa” lịch sử, người ta cũng gọi “sĩ” là “kẻ sĩ”, “kẻ sĩ” tức là “trí thức”, chỉ chung những người chủ yếu lao động bằng trí óc. Bao gồm : nhân viên kỹ thuật, thầy thuốc, giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học, diễn viên, luật sư, những người hoạt động văn học nghệ thuật... ví dụ như bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ , văn sĩ, ca sĩ…
Những người này thường được gọi là phần tử “trí thức” (3) (Intellectual), hình thành một đội ngũ, một tầng lớp trong xã hội, chứ không phải là một giai cấp.
Cũng có ý kiến cho rằng đặc điểm của “trí thức” là lao động trí óc, cho nên “trí thức” bao gồm cả những người ở tầng lớp thống trị :
“Nếu giai cấp công nhân và nông dân về nguồn gốc tồn tại đều về phía đại biểu của lao động chân tay thì tình hình đối với các đại biểu của lao động trí óc lại phức tạp hơn. Một mặt thuộc vào số này là các giai cấp thống trị mà đa số hợp thành một tầng lớp ăn bám, bóc lột lao động làm thuê (cả lao động trí óc lẫn lao động chân tay)”(4).
Như vậy những người thống trị cũng thuộc tầng lớp “trí thức” ? Thời kỳ phong kiến, chữ Hán gọi “trí thức” là “sĩ” 士, nhưng cũng gọi là quan là “sĩ”, có điều, chữ viết khác nhau một chút: 仕 (thêm bộ nhân đứng một bên). Cho nên “trí thức” và “làm quan” không xa nhau mấy. Mạnh Tử gọi tầng lớp quan lại là người “lao tâm” còn người dân lao động là “lao lực” từ đó cho rằng “người lao tâm cai trị người khác, còn người lao lực thì bị người khác cai trị” (lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân, Mạnh Tử, Đằng Văn Công, thượng).
Chú thích (1)Truyện Kiều: “Bây giờ kẻ ngược người xuôi, biết bao giừ lại nối lời nước non”.
Nhị độ mai: “Rồi đây kẻ Bắc người Nam, Cành hoa xin tặng để làm của tin”.
Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, l995, tr. 461: “Kẻ cả đàn anh”.
(2) Thời ngũ đế (thế kỷ XXVI - XXII Tr.CN), “sĩ” chỉ quan coi hình ngục. Chữ “sĩ” trong Kim văn có hình cái rìu, tức là vũ khí của quan coi ngục. Xem Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 1997, mục chữ “sĩ”.
(3) Ở Trung Quốc thường gọi là “tri thức phần tử” 知 識 份 子, ở Việt Nam lại gọi là “phần tử trí thức” xin lưu ý là “trí” 智chứ không phải là “tri” 知. Từ điển Hán – Pháp (Dictionaire Chinols - Francais) thương vụ Ấn thư quán, Bắc kinh, 1959, dịch “tri” 知 là savoir, connaitre, “trí” 智 là intelligence, sagesse.
(4)Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1986, tr. 365.
(5) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, t.2, tr. 209, 214.
(6) Phan Huy chú, Sđd, tr. 169.
(7) Trích theo Triết học đại từ điển, Phùng Khiết chủ biên, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1991, tr. 1013.
(8)Các Mác – Phri-drichĂng-ghen tuyển tập (6 tập). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, t.l, tr. 291.
(9) Ph. Ăngghen, Chống Duy-rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 293.
(10)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb sách giáo khoa Mac-Leenin, Hà Nội, 1979, t.3, tr. 408.
(11)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđđ, tr. 410.
(12)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđđ, tr. 415.
(l3) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, t. 2, tr. 170.
(14)Sđd, tr. 170.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Đừng sống chỉ vì hạnh phúc: Đi tìm lẽ sống của đời mình
13/07/2019Lê Hà dịchCó khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)