Viện khoa học xã hội tp. Hồ Chí Minh08:19 CH @ Thứ Hai - 28 Tháng Ba, 2016
Đây thật sự là vấn đề triết học nhân văn mà chưa thấy bàn nhiều ở nước ta với một tư cách là một chuyên đề độc lập trong các giáo trình và các chuyên luận. Hồ Chí Minh cho rằng: mọi vấn đề qui đến cùng là vấn đề ở đời và làm người. Các triết học và tôn giáo ít hoặc nhiều đều động chạm đến vấn đề đó với các góc độ, khía cạnh khác nhau...
Chẳng hạn trong triết học Khổng Tử và triết học Trung Quốc nói chung cũng như tư tưởng triết học ở Việt Nam ta đều bàn đến vấn đề làm người, đặc biệt là người quân tử với tất cả những mối quan hệ Tam cương, Ngũ thường. Triết học Phật giáo bàn về đời người, sự khổ con người và sự giải thóat để làm người. Thiên Chúa giáo bàn về con người và đời người ở trần gian là tạm thời còn Thiên đường là vĩnh cửu. Triết học Hiện sinh lại bàn về đời người cô đơn và làm người theo kiểu tự do tuyệt đối. Triết học Xocrat lại bàn về vấn đề làm người một cách độc lập và sáng tạo. Cantơ đề cao vai trò con người, muốn xây dựng một khoa học về con người để ai cũng học được cách làm người. Triết học Mác xuất phát từ con người thực tiễn và nghiên cứu những con đường và điều kiện để giải phóng con người đi tới vương quốc tự do. Hồ Chí Minh tôn trọng con người, đề cao tính chủ động của con người tìm mọi cách để phục vụ con người theo tinh thần của chủ nghĩa nhân văn thực tiễn cao cả v.v.
Vấn đề chúng ta đang bàn liên quan đến nhiều khía cạnh và góc độ có thể nhìn nhận một cách khái quát sau đây:
Con người: sống và chết; cống hiến - hưởng thụ và được tôn vinh
Con người được sinh ra như sự kết hợp âm- dương, sự tổng hòa trời đất, tổng hòa giới tính nam- nữ. Nói cụ thể hơn con người ra đời do cha và mẹ yêu nhau trong cuộc sống hôn nhân. Nhưng ta lại thường nói cha sinh mẹ dưỡng, cha mẹ sinh con trời sinh tính. Con người ra đời ở điểm khởi đầu của nó là một cơ thể sinh học như một dạng vật chất tiến hóa cao nhất hiện nay. Sau chín tháng mười ngày thì ra đời nhưng là một sự rút ngắn của sự tiến hóa sinh học diễn ra hàng triệu năm trước đó trong quá trình xuất hiện loài người và con người trên trái đất.
Cơ thể sinh học đó có một kết cấu chất đặc biệt như một thực thể nhu cầu có khả năng đáp ứng và thích hợp với môi trường tự nhiên và xã hội. Cơ thể này là một thực thể tự nhiên có khả năng thực hiện lao động xã hội, giao tiếp xã hội và hình thành ý thức. Thực thể đó chứa đựng nhiều khả năng bẩm sinh như bản năng sinh học, bản năng hợp quần xã hội sẽ được phát triển để trở thành bản chất người thực sự trong môi trường tự nhiên và xã hội. Những bộ phận đặc biệt của cơ thể đó là bộ não của người và trái tim của nó. Khoa học ngày nay đã đạt đến một trình độ khá cao để tìm hiểu về cấu tạo, cơ chế của bộ não người, trái tim của con người như một sự hội tụ và kết tinh hoa của Trời đất và sau nữa là của văn hóa nhân loại trong tiến trình lịch sử. Nhưng chúng ta còn hiểu biết ít ỏi về bộ óc của mình với 100 tỷ tế bào nơtron khổng lồ và vô tận. Ở đó không phải chỉ có hữu thức mà còn có cả tiềm thức và vô thức với những đặc điểm và cơ năng đầy bí ẩn mà khoa học mới chạm tới cửa ngõ của nó.
Cơ thể sinh học là cơ sở vật chất của con người để hình thành và phát triển con người. Khi con người sinh ra đã bắt đầu sống trong môi trường gia đình và môi trường xã hội càng ngày được mở rộng cùng với sự họat động và giao tiếp của con người. Con người trong cuộc đời mình trải qua nhiều giai đọan: Một là giai đọan trong bụng mẹ; hai là giai đọan chủ yếu được nuôi dưỡng; ba là giai đọan được học tập để chuẩn bị vào đời; bốn là giai đọan lập nghiệp, lao động cống hiến và hưởng thụ; năm là giai đọan tuổi già và nghỉ hưu; sáu là giai đọan sau khi đã chết và được thờ phụng, tôn vinh (theo cách phân chia của Giáo sư Trần Trọng Đăng Đàn). Sau giai đọan đó thể hiện sự tiến hóa về mặt sinh học của một con người và cũng là mặt xã hội của một đời người trong quá trình trao đổi chất, sống, họat động xã hội.
Vấn đề cơ bản trong quá trình đó là quá trình tiếp nhận từ phía môi trường tự nhiên và xã hội, cũng là quá trình tác động vào môi trường ấy, sáng tạo ra mọi của cải vật chất theo nhu cầu sinh tồn và phát triển; đó cũng là quá trình con người được hưởng thụ và phát triển nhân cách của mình với tư cách là chủ thể của đời sống. Bản chất xã hội của con người được hình thành trong quá trình đó trên cơ sở cơ thể sinh học và trở thành thuộc tính bản chất xã hội của cơ thể con người với tư cách một thực thể hoạt động tích cực, sáng tạo với ý nghĩa nhân sinh.
Giá trị và vị thế của con người như thế nào là phụ thuộc vào quá trình hoạt động, cống hiến, thể hiện tài đức, dũng khí của con người mà ở đó là sự thống nhất nhiều cái thể chất, cái đạo đức, cái trí tuệ và cái thẩm mỹ. Nhưng đời người và con người không thể sống mãi mãi xét về mặt cơ thể sinh học nhưng xét về mặt xã hội thì con người sau khi chết có thể con tiếp tục "sống" trong trái tim của những người thân hoặc cũng có thể trái tim dân tộc và nhân lọai nếu là những anh hùng, những vĩ nhân. Nói cụ thể hơn tuổi thọ xã hội của họ dài hay ngắn phục thuộc vào ý nghĩa xã hội, sự cống hiến cho xã hội của họ khi đang còn sống với tư cách một thực thể sinh học. Sau khi chết ai được tôn vinh thì đó là niềm tự hào của người đã khuất và người đang sống.
Con người - đời người - khổ đau - hạnh phúc.
Nhưng cuộc đời là oái ăm thay. Khi nhìn về khía khác để thấy rằng cuộc đời là bể khổ như cách triết lý của Phật giáo chẳng hạn. Quả cũng có lý khi nói rằng: sinh ra cũng khổ, bệnh tật cũng khổ, già lão cũng khổ, chết cũng khổ. Nếu thế thì suy rộng ra yêu nhau và xây dựng gia đình cũng khổ. Có chồng lại khổ vì chồng. Song không có chồng lại chẳng sung sướng gì. Lênin đã nói rằng người mẹ sinh con là chịu nhiều đau đớn nhưng chẳng bà mẹ nào lại không ao ước muốn được có con vì đó là thiên chức của hạnh phúc cao quí trước hết của người mẹ, người phụ nữ. Dân ta nói người phụ nữ không có con giống như cây không có hoa, không có trái. Đó là sự khổ do không có chồng con!
Do đó, nói đúng hơn đời người và làm người không tuyệt đối sung sướng, không tuyệt đối đau khổ mà là có cả hai. Nhưng con người là một chủ thể tích cực, chủ động nối Trời và đất, biết thích nghi với môi trường để phát triển, có khả năng tạo ra cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn. Chính lịch sử của xã hội loài người, lịch sử của con người đã chứng minh điều đó. Đi vào từng con người cụ thể có thể có người bất hạnh nhiều hơn hạnh phúc, nhưng những người sống tốt đẹp và hạnh phúc nhiều hơn. Sự tốt đẹp ấy lại là phạm trù lịch sử như nấc thang tiến hóa từ thấp đến cao.
Nhìn sâu hơn vào hiện thực thì sự bất lực của con người, sự đau khổ của con người có nguyên nhân tự nhiên nhưng chủ yếu cũng từ nguyên nhân xã hội, con người tự làm khổ cho con người là chính. Trong xã hội có giai cấp bóc lột thì đa số con người sống nghèo khó, chịu nhiều bất công và áp bức trong khi đó thiểu số thì giàu có sung túc hơn nhờ sự bóc lột sức lao động của đa số. Khi con người bắt đầu lao động và sáng tạo, đó là bước nhảy vọt từ lòai vật sang lòai người. Nhưng chỉ khi nào con người xóa bỏ được chế độ áp bức bóc lột cuối cùng trong lịch sử thì mới thực hiện được bước nhảy vọt tiếp theo từ xã hội tiền sử sang xã hội của con người thực sự tự do, phát triển toàn diện, làm chủ tự nhiên xã hội và bản thân mà chủ nghĩa Mác đã dự báo một cách khoa học trên cơ sở hiểu biết qui luật lịch sử.
26/10/2019PGS.TS. Hồ Sĩ QuýQuan niệm coi con người là trung tâm đã trở thành cách nhìn, cách nghĩ có sức hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà lý luận và các nhà hoạt động chính trị - xã hội...
22/09/2015Nguyễn Trần BạtVượt thời gian là một khả năng tuyệt vời của nhận thức. Khả năng vượt thời gian cho phép người ta có thể truy đuổi, suy ngẫm về tương lai, hay ít nhất là chuẩn bị tiền đề tâm lý để đi đến với nó. Và ngay cả những người hôm nay đã tìm ra công nghệ để đi đến tương lai nếu trong quá trình tiến đến tương lai tiếp theo, tương lai cấp hai, vẫn khư khư giữ lấy bản đồ án của tương lai thứ nhất thì cũng sẽ trở thành kẻ bảo thủ trong giai đoạn thứ hai này. Cơ sở của công nghệ đi đến tương lai là tư duy không ngừng, lựa chọn không ngừng và loại bỏ không ngừng...
20/09/2013Nguyễn Chu PhácLịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sức mạnh không ở mãi trong tay một người, văn minh không nằm mãi ở một vùng. Tự nhiên sẽ tiếp tục vận động, xã hội cũng vận động. Người nắm trong tay sức mạnh vật chất, đồng tiền và quyền lực hãy tỉnh táo cố tự ghìm mình. Kẻ ác sẽ phải trả giá cả về vật chất và tinh thần nặng hơn gấp nhiều lần điều ác mà họ gây ra...
28/02/2009TS. Hồ Bá ThâmVấn đề con người luôn luôn là sự quan tâm phân tích, luận bàn trực tiếp hay gián tiếp của các trường phái triết học xưa nay. Tuy nhiên, tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử mà sự phát hiện và nghiên cứu về con người có góc độ và khía cạnh khác nhau. Chủ đề này không mới nhưng lại luôn luôn mang tính thời sự và chưa bao giờ cũ. Chúng ta khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh thì nhiều nhưng khám phá, tìm hiểu về con người, bản thân mình, như nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận, thì vẫn còn ít...
26/02/2009Hoàng Ngọc HiếnTừ cuối thế kỉ XIX, khoa học xã hội trở thành hiện đại, ngày càng chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá, quá trình này là tất yếu để đáp ứng sự nghiên cứu xã hội hiện đại trở nên ngày càng phức tạp. Trong thế kỉ XX, KHXH hiện đại có những đóng góp to lớn về định tính cũng như định lượng, tầm vi mô cũng như vĩ mô, tuy nhiên ở không ít nhà KHXH hiện đại bộc lộ những nhược điểm...
21/02/2009TS. Hồ Bá ThâmĐể đưa đất nước phát triển lên giàu mạnh và văn minh, đi qua công nghiệp hóa hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường, nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng một tầm nhìn triết học và một nền triết học Việt Nam hiện đại. Có thể trọng tâm của việc xây dựng đó là tập trung vào việc phát triển triết học về con người và triết học về sự phát triển xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại...
13/02/2009TS. Hồ Bá ThâmĐây là một quan niệm mới của tác giả về lĩnh vực triết học nhân văn. Chungta. com cũng đã giới thiệu nội dung khái quát 2 cuốn sách của tác giả về chủ đề này. Để giúp bạn đọc rõ hơn, chúng tôi giới thiệu bài viết trực tiếp về nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật nhân văn và phương pháp luận của nó.
22/01/2009Hà Huy KhoáiBài viết này chỉ là những suy nghĩ tản mạn của một người "ngoại đạo" nhìn tiến hóa không phải với con mắt một nhà tự nhiên học, mà của một người "bình thường". Tôi bỗng giật mình nhận thấy, trong sự tiến hóa kỳ diệu của tự nhiên, phải chăng tạo hóa đã "lỗ" khi tạo ra con người: loài động vật "thượng đẳng" là nguyên nhân chính làm biến mất khỏi thế gian này bao nhiêu loài khác. Vả lại con người có phải là "thượng đẳng "hay không trong nấc thang tiến hóa?
06/12/2008Nguyễn KiênBắt đầu hoạt động cách mạng với những khái niệm “con người”, “quyền con người”, Hồ Chí Minh cũng khép lại cuộc đời mình với khái niệm “con người”, tuy với những nội dung có khác nhau…
21/11/2008Nguyễn Thành TrungGần nhà có một quán cóc nhỏ gọi là quán bà Trường, dân tình ngồi ở đấy thường là mấy tay xe ôm, mấy thằng sinh viên trong khu, và thỉnh thoảng có cả mấy ông công an phường....