Tân Đính Quốc Dân Độc Bản: Sách đọc của quốc dân
Cuốn sách này gồm có hai phần (Tập I và Tập II) do tác giả khuyết danh biên soạn, được Đông Kinh Nghĩa Thục khắc in nhiều lần, phát hành với số lượng rất lớn (lên tới hàng vạn bản), phổ biến tại Đông Kinh Nghĩa Thục và trong phong trào Nghĩa Thục ở các địa phương.
Văn bản gốc chữ Hán của Quốc dân độc bản, hiện được lưu giữ tại ba nơi:
1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I Hà Nội (Cục Lưu trữ Nhà nước) trong Hồ sơ số 56.247, Phông Thống sứ Bắc Kỳ, có tiêu đề “Hồ sơ Đề Thám, các tài liệu chữ Hán tịch thu năm 1913” (Dossier N056247, Fonds de la Résidence supérieure du Tonkin: "Dossier Dê Tham - Documents en Caractères chinois saisis en 1913").
2. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ký hiệu sách: A.174, bản in khắc gỗ 190 tr. khổ 26 x 15cm, có Đại ý biên tập và Mục lục (Thượng, Hạ tập). Bản này tên sách chỉ có bốn chữ Quốc dân độc bản mà không có hai chữ “Tân đính”.
3. Tại Trung tâm Lưu trữ hải ngoại của Pháp ở Aixen Provence, trong Hộp Hồ sơ SPCE/351, cũng có cuốn Tân đính Quốc dân độc bản, giống hệt như bản sách tịch thu của Phong Thống sứ Bắc Kỳ trên đây. Ở bản này có Mục lục sách Quốc dân độc bản lược dịch ra tiếng Pháp (chữ viết tay) chúng tôi dịch sang tiếng Việt như sau:
Tập 1
“- Xã hội loài người hình thành như thế nào. - Con người đã biết yêu mến bộ tộc mà mình đã góp phần tạo thành như thế nào.
- Chủ nghĩa yêu nước. - Cuộc đấu tranh để đạt tới những vị trí tốt hơn. - Sự đoàn kết.
- Nền trật tự công cộng.
- Nhà nước,
- Nguồn gốc nước An Nam chúng ta.
- Nền văn minh (văn hiến) rất lâu đời của nước An Nam ta đã ảnh hưởng như thế nào đối với nền văn minh (văn hiến, ngày nay.
- Văn minh. Văn minh và hùng cường. - Dân chúng. Chính phủ. Mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước.
- Sức mạnh của dân tộc (Nhà nước) phụ thuộc vào sức mạnh của công dân.
- Chủ nghĩa yêu nước chân chính. Ý nghĩa thực sự của từ “trung” (trung với vua). Tính độc lập của các quốc gia) dân tộc. Công dân không được ỷ lại tất cả vào chính phủ.
- Sự tiến bộ. Sự đấu tranh cho cuộc sống. Ân huệ của Trời. Quân đội. - Hình thức chính phủ. Nền quân chủ. Những viên chức.
- Nhà nước Nhật Bản. Nền quân chủ và Nghị viện - Sự cần thiết đối với người công dân là phải biết mình đang sống dưới chế độ nào. Những thành kiến và những giả thiết. Việc giáo dục. Giáo dục theo Phật giáo. Giáo dục thanh niên ở Nhật Bản. Những học vị Đại học.
Tập II
- Những điều bất tiện trong hệ thống tuyển người ra làm việc của chúng ta. Việc bãi bỏ các kỳ thi và những hậu quả của nó.
- Quân đội. Phương pháp Tây phương. Thuế. Vài khái niệm về môn Kinh tế - chính trị học. Nhân viên thuế vụ của Trung Quốc. Hệ thống thuế khóa của Nhật Bản.
- Luật. Luật hình sự của Nhật Bản. Sự biện giải của nó.
Những mối quan hệ với bên ngoài. - Nước Pháp. Hình thức chính phủ của nước Pháp. - Tôn giáo. Những khuynh hướng muốn xóa bỏ mọi tôn giáo. - Tài nguyên. Sự hùng mạnh.
- Người Pháp đến nước An Nam. Những kết quả về mặt kinh tế và hoạt động của nước Pháp đã mang lại. Để lợi dụng sự có mặt của người Pháp, chúng ta phải thay đổi cách sống của chúng ta.
- Những tổ chức thợ thuyền. Máy móc. Máy móc có thể ảnh hưởng đến tiền lương và việc phân phối lao động như thế nào.
- Các ngành kỹ nghệ. Vốn. Tài nguyên của chúng ta. Có nhiều người trong nước là một điều cần thiết. Điều tất yếu là phải có quan hệ buôn bán với bên ngoài.
- Việc thống kê. Các ngân hàng. Các hội buôn”(1).
Về nội dung sách Quốc dân độc bản, trước đây khi viết tập chuyên khảo ĐỘNG KINH NGHĨA THỤC VÀ PHONG TRÀO CẢI CÁCH VĂN HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX. Nxb Hà Nội - 1982, chúng tôi có trích dịch và công bố 20 bài trong tổng số 79 bài. Trong lần tái bản công trình nghiên cứu này Nxb Văn hóa Thông tin - Hà Nội, 1997 chúng tôi đã công bố toàn văn QUỐC DÂN ĐỘC BẢN theo bản dịch của Đỗ Văn Hỷ và Vũ Văn Sạch (in trong tập sách VĂN THƠ ĐỘNG KINH NGHĨA THỤC do Cục Lưu trữ Nhà nước và Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp thực hiện, Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1997)
(1) Theo nhận xét của chúng tôi thì Bản Mục lục dịch tóm tắt bằng tiếng Pháp trên đây, có lẽ do một viên thông ngôn nào đó đã dịch rất đại khái, để báo cáo với thượng cấp (ở Phủ Thống sứ và Tòa Mật thám?), không trung thực đối với nguyên bản chữ Hán. Xin bạn đọc xem Mục lục bản dịch của bản tiếng Việt ở sau đây.
MỤC LỤC
Đại ý biên tập
Tập I
1. Nguồn gốc xã hội
2. Ái quần
3. Yêu gia đình, yêu làng xóm không phải là ái quần
4.Tranh lên trước
5. Bác ái
6. Chữ tín
7. Giữ điều thứ
8. Bàn về nước
9. Nước ta lập quốc từ xưa
10. Nước ta khai hóa rất sớm
11. Văn minh
12. Văn minh không có giới hạn
13. Quan hệ giữa nước và dân
14. Bàn về quốc dân
15. Nỗi bi thảm của quốc gia không được độc lập
16. Dân mạnh thì nước mạnh
17. Ái quốc
18. Thế nào là yêu nước thật sự?
19. Trung nghĩa
20. Độc lập
21. Đừng trông chờ ở chính phủ
22. Tiến thủ
23. Cạnh tranh
24. Tin vào mệnh trời là sai
25. Vũ dũng
26. Chính thể
27. Bàn về vua
28. Bàn về quan
29. Quan tước và chính phủ ở nước ta
30. Chế độ chính phủ và địa phương Nhật Bản
31. Quốc hội và Hội đồng địa phương của Nhật Bản
32. Quốc dân nên hiểu ý nghĩa của chính trị
33. Thay đổi nếp cũ khó khăn thay!
34. Giáo dục
35. Giải thích về việc học
36. Trường học ở Nhật Bản
37. Cái hại của khoa cử
Tập II
38. Không thi hành khoa cử cũng chẳng có hại
39. Nói về binh lính
40. Sơ lược về cách trung bình của Nhật Bản
41. Thuế khóa
42. Quyền lợi và trách nhiệm
43. Pháp luật
44. Giải thích về pháp luật
45. Các quan tư pháp ở Trung Quốc
46. Chế độ tài phán ở Nhật Bản
47. Hình phạt ở Nhật Bản
48. Thay đổi pháp luật trước hết phải giữ chữ "tín"
49. Bàn về giao thông, thông tin
50. Địa phương nên giải quyết việc hành chính
51. Cảnh sát địa phương
52. Cảnh sát địa phương ở Nhật Bản
53. Kê khai, điều tra dân số
54. Những giấy tờ chứng nhận của dân nước Pháp
55. Tôn giáo
56. Sản nghiệp
57. Pháp luật bảo vệ sản nghiệp và lợi ích sản nghiệp đưa lại
58. Những quyền lợi đặc biệt
59. Nhân công sinh lợi
60. Chức nghiệp nhiều hay ít đều có hạn
61. Nước ta nên chấn hưng thực nghiệp
62. Nhân công
63. Máy móc
64. Máy móc sao lại làm hại nhân công 65. Tránh cái hại của sự phân công và sử dụng máy móc
66. Lợi ích của đại công nghiệp
67. Tiền công
68. Tư bản
69. Lý do vì sao tư bản tăng hay giảm
70. Nhà đại tư bản cũng có ích cho người nghèo
71. Mậu dịch
72.Thông thương
73. Tiền tệ
74. Phép đúc tiền
75. Cho vay
76. Ngân hàng
77. Trái phiếu, hối phiếu và chiết khấu ngân hàng
78. Séc
79. Công ty
Giáo dục quốc dân là bồi dưỡng cho quốc dân lòng trung nghĩa, quả cảm. Nền giáo dục của nước ta đặt đạo đức lên đầu, xem trí năng là thứ yếu, cho nên không nói đến giáo dục quốc dân.
Có người hỏi: những việc như tôn quân, thương yêu cha mẹ, giữ gìn pháp luật, lo lắng việc công, thu nạp tô thuế, kính trọng bậc tôn trưởng, dân ta người có ít nhiều trị thức đều biết cả, mà những kẻ có tài năng đều có thể để tâm nghiên cứu các nền chính trị cổ kim, trong nước, ngoài nước, nhận rõ được cái hay cái dở, sao lại nói không có giáo dục quốc dân?
Xin thưa: Văn hiến các đời vốn là việc của triều đình, cho nên chỉ những ai có chí làm công khanh, đại phu mới học, chớ không phải là giáo dục quốc dân nhằm phổ biến rộng rãi trong dân chúng mà là định phận trên dưới, giữ gìn lễ phép. Giáo dục quốc dân không phải như thế, mà là làm rõ cái lý tương quan giữa nước và dân, làm cho họ biết vị trí của họ trong xã hội ở chỗ nào, chức phận ra sao và làm thế nào để gây ý thức ái quốc, ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập. Không đạt được hai điều đó là vì bắt nguồn từ một chỗ mà chia ra dòng khác, sai một li đi một dặm. Phàm nước mà không có giáo dục quốc dân, thì trăm họ u mê, không biết quốc gia là gì, chính trị là gì. Trên có vua hiền, chính phủ có tướng giỏi, nhưng trăm họ thì như bù nhìn, chỉ nghe theo lệnh của chính phủ, bước từng bước một. Cho nên dân chỉ có thể tĩnh mà không có thể động. Nước yếu mà không đại trị thì gặp một biến cố nhỏ sẽ như gặp nước sôi lửa bỏng, không tài nào thu xếp được. Giống như con cái phục tùng uy quyền của cha anh, tay chân lông ngóng, gặp nguy nan thì không tự cứu được.
Than ôi! Chẳng phải tai hại lắm sao? Ở các nước châu Âu, học đường đều lấy giáo dục quốc dân làm điều cấp thiết. Ở bậc sơ đẳng, tiểu học, tuy không có sách giáo khoa dạy riêng, nhưng trong các sách tập đọc thấy rải rác có nhiều bài thơ nhỏ được thầy giáo truyền thụ cho. Lên bậc cao đẳng thì có sách chuyên đề rồi, để giảng dạy.
Biên tập sách này, chúng tôi tham khảo, châm chước các sách ấy cho thích hợp với dân ta, tạm dùng trong học đường mà thôi, không dám nhận là sách giáo khoa. Sách cốt dạy cho kẻ thiếu niên. Phàm những điều liên quan đến quốc gia, xã hội, công đức của quốc dân, chính thể, quan chế, học đường, quân chính, phú thuế, pháp luật, giao thông, cảnh sát, dân chính, hộ luật, tôn giáo, cho đến kế toán đều có đề cập đầy đủ. Văn lý giản dị, rõ ràng, ngữ khí ôn hòa, cốt nhằm mở mang dân trí hòng đặt cơ sở cho nền tân học. Trẻ em trên 12, 13 tuổi đều có thể mua mà đọc. Còn như những người lớn, ít thì giờ rỗi để đọc các sách khác, cũng có thể xem để biết qua những điều quan hệ với đời.
Xem tiếp …
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Đừng sống chỉ vì hạnh phúc: Đi tìm lẽ sống của đời mình
13/07/2019Lê Hà dịchBài 2: Làm rõ khái niệm "Con Người" để thấy sai sót căn bản của luận án
07/02/2023GS. Nguyễn Ngọc Lanh ([email protected])Tết tự quán chiếu
04/02/2023Cameron Shingleton. H.MINH (dịch)