Cáo hủ lậu văn là bài thơ của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục nhằm mục đích đả kích lối học cũ và tư tưởng lạc hậu của các nhà Nho bảo thủ, một trở ngại cho phong trào Duy Tân hồi bấy giờ.
Bài này nguyên bản chữ Hán, tác giả lấy tên là "Yên Sĩ Phi Lý Thuần" (tức là "Inspiration" phiên âm ra tiếng Trung Quốc). Bản dịch này là của Ngô Vi Lâm (cổ chép là Ngô Vi Quý) đăng trên Đăng cổ tùng báo số 808 năm 1907.
Muôn năm Ất Tị (1)… vua ta,
Trước ba ngày Giáp(2)ấy là ngày Tân(3)….
Nhiệt thành có một chủ nhân,
Làm văn “cáo hủ” để răn những người:
Áo kia sông Tứ(4) đã tồi,
Nho thời nho vậy, mang cười y quan!(5)
Chiếu kia đàn hạnh(6) đã tàn,
Cổ thời cổ vậy, dám bàn báo hoa!(7)
Một lời nhắn bảo gần xa,
Xin ai đừng giận để ta hết lời.
Các người quân tử kia ôi!
Quê thời thanh thục(8), óc thời thông minh.
Vốn ta học Tố vương Kinh(9),
Cải thân là giống đàn anh da vàng.
Bây giờ, mới, lạ, mở mang.
Hội Duy tân những rõ ràng mắt tai!
Sao không đập mạnh thét dài,
Cho người mê ngủ ai ai tỉnh dần?
Sao không chống mảng mê tân(10),
Cho người chìm đuối lần lần vượt lên?
Tiếc thay sách hủ giữ bền,
Khác nào như mọt nghiến bên mình người.
Đau thay thói hủ giữ hoài,
Những là lầm lỡ cả đời người ta.
Khỏi làng mắt chửa thấy xa,
Lại toan mai mỉa hai nhà Khang, Lương(11)!
Ở nhà chân chữa ra đường,
Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ!
Hỏi: “Ông tu những đường mô?”
Ông rằng: “Tu những làng Nho đã thừa”.
Hỏi: “Ông mộ những gì ư?”
Ông rằng: “Mộ những người xưa làm thầy”.
Điềm trời không đó không hay,
Ông rằng: “Sự rủi sự may tại trời”.
Đường đi tỉnh, nhật hai ngôi,
Hấp ly(12) … sao thế, ông thời u ti.
Trái đất là tròn, là đi,
Ông rằng: “Vuông đấy, đứng kia thường thường”.
Phiên Thành (13), Thượng Hải một phương,
Bụng, lưng(14)đâu tả? Ông giương mắt chầu!
Hỏi rằng: “Dây thép sao mau?”
Ông rằng: “Khi học cùng mầu mà thôi”.
Kìa như dây sắt, roi lôi(15)
Nào ai hãy đặt mọi ngôi cho đành?
Hỏi rằng: “Xe khí sao nhanh?”
Ông rằng: “Nghề máy cũng lành mà thôi”.
Kìa như lửa ống, nước nồi,
Kìa ai bày xét đến nơi nhiệm mầu?
Năm châu tên gọi hay đâu,
Lại chê người rợ, mà rằng ta hoa (16),
Mắt dòm chính, học(17) chưa ra…
Lại chê người bas mà nhà ta vương(18).
Có người đau đáu lòng thương,
Mắng rằng trái thể, còn đương lỗi thì.
Có người học sách Tây kia,
Cười rằng trở đạo(19) mà lìa năm kinh.
Thấy ngúời bàn rộng khác mình,
Tình Châu (20)… Băng Thất (21) thêm tình ghét ghen.
Khoe mình dòm báo (22) một phen,
Hỏa sơn, Băng hải chỉ quen nói mồm.
Lại còn văn học lên câu(23),
Bịnh mê truyện qụái, lòng âu sách tình!
Tinh thần mê mẩn trong mình,
Bao nhiều ý khí sinh bình cũng tiêu!
Than ôi! Sắc đã xế chiều,
Vấn vơ hồn ấy biết chiêu chốn nào?
Ở trên kể lể mấy điều,
Gọi là nhặt nhạnh ít nhiều việc to.
Rộng xem lồng lộng tám khu (24),
Xa trông dằng dặc nghìn thư trên đời.
Há rằng ma hủ quấy người,
Khiển cho mê dại khôn rồi tỉnh ra?
Hâ rằng nghiệt lậu (25) theo ta,
Khiển cho giam buộc khó mà gỡ ra!
Nho ơi! Nhắn hỏi mọi nhà,
Khăng khăng nho thế sao ra cái đời?
Cổ ơi! Nhắn bảo mọi nơi:
Khu khư cổ mãi, đứng thời sao đây?
Thương thay! thương thảy! thương thương thay!
Ngắn than, dài thở, sự này tại ai?
Người sao trời rộng đất dài,
Ta sao co quắp một nơi thế mà!
Người sao nhảy thẳng bay xa.
Ta sao chen chúc xó nhà với nhau?
Người sao làm chủ hoàn cầu,
Ta sao nô lệ cúi đầu làm tôi?
Người sao sáng sủa đầy trời,
Ta sao hồn tối như người đi đêm!
Lấy gương thử ngắm mà xem,
Ra gì mặt mũi mà đem khoe đời!
Bước ra những ngại với người,
Cũng toan tay cẳng thì tài ai cho!
Lòng thời lạnh ngắt như tro,
Thân thời như thể hình thù cây khô.
Mắt tuy sáng cũng như mù,
Ai đem đèn khí(26) mà cho soi cùng!
Tai tuy có cũng như không!
Ai đem chuông náo(27)… mà rung bên mình!
Mong ai một tiếng kêu lanh,
Mấy lời đau khóc thương tỉnh cho ta!
Thương ôi! Nhắn bảo gần xa,
Văn này xin đọc vài ba bốn lần.
Nghe ông cũng có tân văn(28),
Sao ông chẳng giở cho cần(29) thế ư?
Nghe ông cũng có tân thư,
Sao ông lại vẫn ngần ngừ chẳng coi?
Đổi mau cái tính hẹp hòi!
Rước mau cái phúc người đời ta lên!
Ghi chú:
1. Năm 1905
2. Mồng 1 tháng giêng năm Ất Tý là ngày Giáp Tuất
3. Ngày 20 tháng chạp năm Giáp Thì là ngày Tân Mùi
4. Con sông ở quê Khổng Tử
5. Mũ áo
6. Tức Hạnh đàn, chỗ Khổng Tử dạy học trò ngày xưa
7. Nguyên văn là "báo lầu": lầu để trưng bày đồ quý
8. Sinh thanh thục hương: đẻ ra trong làng trong sách (nghĩa là thuộc thành phần nhà Nho)
9. Sách kinh điển của Khổng Tử: Người ta gọi Khổng Tử là Tổ vương (vua không ngôi, không quyền)
10. Bến mê
11. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu
12. Định luật vạn vật hấp dẫn trong thái dương hệ về mặt trăng, mặt trời. Hấp: sức hút các tinh tú. Ly: sức lìa xa trung tâm
13. Tỉnh Bình Thuận
14. Phía trước và phía sau
15. Cột thu sét
16. Ta văn minh
17. Chính trị và học thuật
18. Các nhà Nho thủ cựu hồi đó vẫn chủ trương rằng văn minh châu Âu chỉ là "bá đạo", khôn khéo, nhưng chỉ thịnh một thời; còn đạo Khổng là "vương đạo" sẽ ngự trị thiên hạ mãi mãi.
19. Trái đạo
20. Tân Gia Ba (Singapore)
21. Ẩm Băng Thất: chỉ Lương Khải Siêu
22. Do chữ "khuy báo": ý nói ngó thấy sơ qua hoa văn của con beo, đã nghĩ rằng mình đã biết rõ con beo (mới biết được đôi chút về sự vật gì đã tưởng là nắm vững cả)
23. Lên câu: một thành ngữ cũ: "Lên câu tột", nghĩa là lên mặt, kiêu ngạo
24. Thiên hạ
25. Con ma hủ lậu
26. Đèn điện
27. Chuông réo
28. Báo chí
29. Cho chuyên cần