Vị trí, ý nghĩa của phạm trù đời sống tinh thần xã hội trong chủ nghĩa duy vật lịch sử
Việc vận dụng vấn đề cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và tự nhiên, giữa ý thức và vật chất vào lĩnh vực xã hội không chỉ làm xuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa ý thức xãhội và tồn tạixã hội, mà còn làm xuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa đời sống tinh thần xã hộivà đời sống vật chất xã hội...
"Đời sống tinh thần xã hội" được chú ý xem xét với tư cách là phạm trù triết học bắt đầu từ cuối nhưng năm 50, đầu những năm 60 trong các tài liệu triết học ở Liên Xô (cũ) Từ đó đến nay, thuật ngữ "đời sống tinh thần xã hội" được sử dụng tương đối việc vận dụng vấn để cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và tự nhiên, giữa ý thức và vật chất vào lĩnh vực xã hội không chỉ làmxuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa ý thứcxã hộivà tồn tại xãhội, mà còn làm xuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa đời sông tinh thần xã hội và đời sống vật chất xãhội.
Phạm trù ý thức xã hội, về cơ bản, mới chỉ nói lên mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần - những giá trị tinh thần với tư cách là kết quả của sự phản ánh. Trái lại, phạm trù đời sống tinh thần xã hội vừa nói lên mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần, vừa nói lên mặt xã hội học của lĩnh vực đó mặt chực tiễn tinhchần, bao gồm tất cả nhưng hoạt động và quan hệ tinh thần. Đời sống tinh thần xã hội được hiểu bao gồm tất cả những gì liên quan đến lĩnh vực tinh thần: từ những giá trị, sản phẩm tinh thần đến những hiện tượng, quá trình tinh thần, từ những hoạt động tinh thần (sản xuất tinh thần, phân phôi, tiêu dùng giá trị tinh thần...)đến những quan hệ tinh thần (trong trao đổi, giao tiếp tinh thần...). Nói đến đời sống tinh thần xã hội là nói đến tính liên tục về thời gian, tính rộng lớn về không gian của tất cả những hiện tượng, những quá trình tinh thần. Với ý nghĩa như vậy, nội dung phạm trù đời sống tinh thần xã hội được chúng tôi hiểu như sau: Đời sống tinh thầnxã hội là tất cảnhững giá trị, sảnphẩm, hiện tượng, những quá trình, những hoạt động, những quanhệ tinh thần của con người phản ánh đời sống vật chất xã hội vàđược thể hiện như là một phương thức hoạt động và tồn tại tinhthần của con người trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Văn hoá tinh thần cũng là khái niệm có liên quan đến phạm trù đời sống tinh thần xã hội. Tương tự như đời sống tinh thần xã hội, văn hoá tinh thần không chỉ bao gồm những giá trị tinh thần mà còn bao gồm cả những hoạt động và quan hệ tinh thần của con người. Song, khác với đời sống tinh thần xã hội, văn hoá tinh thần chỉ bao gồm một phần chứ không phải tất cả những giá trị, những hoạt động và quan hệ tinh thần nói
Có thể khẳng định rằng phạm trù đời sống tinh thần xã hội là một phạm trù rộng, nó bao gồm ý thức xã hội, văn hoá tinh thần và nhiều hoạt động và quan hệ tinh thần khác nữa. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ phụ thuộc. Điều đó có nghĩa là ý thức xã hội và văn hoá tinh thần chỉ là một bộ phận của đời sống tinh thần xã hội.
Liên quan đến phạm trù đời sống tinh thần xã hội còn phải kể đến phạm trù "kiến trúc thượng tầng". Phạm trù kiến trúc thượng tầng cũng tương tự như khái niệm văn hoá tinh thần, mới chỉ nói lên phần nào mặt nhận thức luận và mặt thực tiễn tinh thần. Trong nội dung phạm trù kiến trúc thượng tầng bao gồm tư tưởng, tổ chức và thiết chế. Tư tưởng ở đây được hiểu là bao gồm tết cả các hình thái ý thức xã hội. Về mặt nhận thức luận, các hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng chưa phản ánh hết nội dung phạm trù ý thức xã hội. Nói cách khác, ngoài các hình thái ý thức xã hội, ý thức xã hội còn bao gồm các yếu tố khác nữa như tâm lý xã hội, tâm lý dân tộc, tâm lý cá nhân, ý thức cá nhân… Về mặt thực tiễn tinh thần, những hoạt động và quan hệ tinh thần thuộc kiến trúc thượng tầng chỉ là một phần (có thể là phần quan trọng) trong hệ thống hoạt động và quan hệ tinh thần rộng lớn của xã hội. Bởi vì ngoài những tổ chức, cơ quan nhà nước (kể cả những tổ chức phi chính phủ) về văn hoá, tư tưởng, khoa học, những hoạt động và quan hệ tinh thần còn được thực hiện bởi đông đảo quần chúng nhân dân (thể hiện rõ nhất trong văn hoá dân gian, văn học dân gian). Như vậy, mối quan hệ giữa đời sống tinh thần xã hội và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ giao nhau chứ không phải là mối quan hệ phụ thuộc. Nói tóm lại, với hệ thống các phạm trù, khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà chúng ta đã biết, mặc dù các phạm trù ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng và khái niệm văn hoá tinh thần đã phản ánh được những đặc trưng rất cơ bản của đời sống tinh thần xã hội loài người, song tổng số các phạm trù, khái niệm đó cũng không hoàn toàn thay thế được phạm trù đời sống tinh thần xã hội.
Việc xuất hiện phạm trù đời sống tinh thần xã hội trước hết là do nhu cầu phát triền của chủ nghĩa duy vật lịch sử, do nhu cầu hoàn thiện bộ máy phạm trù của nó - nhằm phản ánh đầy đủ hơn các lĩnh vực, các hiện tượng các quá trình và các quy luật phát triển chung nhất của xã hội. Với tư cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù đời sống tinh thần xã hội có vị trí và ý nghĩa to lớn trong hệ thống phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó vừa thể hiện được sự vận dụng triệt để vấn đề cơ bản của triết học vào việc giải quyết lĩnh vực tinh thần của xã hội, vừa thể hiện được tính thực tiễn xã hội của lĩnh vực đó. Cần chú ý rằng, trong nhiều trường hợp, nó không chỉ thay thế được phạm trù ý thức xã hội, khái niệm văn hoá tinh thần, mà còn nói lên được tính chất bao quát, toàn vẹn của lĩnh vực tinh thần.
Với tư cách là đối tượng của nghiên cứu triết học, đời sống tinh thần xã hội vừa được nghiên cứu ở cấp độ
Sự thật thì, các lĩnh vực của đời sống tinh thần nằm trong chỉnh thể thống nhất, thường xuyên tác động lẫn nhau và đan xen vào nhau. Ranh giới giữa các lĩnh vực đó mang ý nghĩa rất tương đối. Trên thực tế, có những yếu tố vừa thuộc lĩnh vực này lại vừa thuộc lĩnh vực kia. Chẳng hạn, không có một hành vi, một thái độ, một quan niệm sống nào (thuộc đời sống dư luận - đạo đức) lại không thấm nhuần tâm lý cá nhân, tâm lý cộng đồng hay tâm lý xã hội (thuộc đời sống tâm lý xã hội). Tâm lý xã hội, nhất là tâm lý cộng đồng, chính là chất keo gắn kết các hành vi đạo đức cá nhân, nhằm hướng tới một mục đích, một lý tưởng
Cũng cần lưu ý rằng, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu đời sống tinh thần xã hội ở cấp độ
Thứ nhất,chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa đời sống tinh thần xã hội và đời sống vật chất xã hội. Đời sống tinh thần xã hội phản ánh đời sống vật chất xã hội, chịu sự quy định, chi phối của đời sống vật chất xã hội. Khi đời sống vật chất thay đổi thì cũng kéo
Thứhai, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu đời sống tinh thần xã hội với tư cách là một chỉnh thể toàn vẹn, với tư cách là một hệ thống đang hoạt động. Đó là một chỉnh thể, một hệ thống bao gồm những hoạt động và quan hệ tinh thần được tiến hành trong cả một quá trình - từ sản xuất tinh thần đến trao đổi, phân phối, tiêu dùng và cất giữ những giá trị tinh thần. Cần phải nghiên cứu những yếu tố đó trong sự tác động qua lại của chúng. Chẳng hạn, hoạt động và quan hệ sản xuất tinh thần quyết định các hoạt động và quan hệ tinh thần khác (trong trao đổi, phân phối...những giá trị tinh thần), song các hoạt động và quan hệ tinh thần khác lại tác động trở lại hoạt động và quan hệ sản xuất tinh thần. Nhu cầu và lợi ích tinh thần là động lực thúc đẩy hoạt động và quan hệ sản xuất tinh thần cũng như các hoạt động và quan hệ tinh thần khác. Trái lại, hoạt động và quan hệ sản xuất tinh thần cũng như các hoạt động và quan hệ tinh thần khác lại là nhân tố quyết định, chế định nhu cầu và lợi ích tinh thần. Cũng cần phải đi sâu nghiên cứu bản chất và đặc trưng của hoạt động và quan hệ tinh thần. Trong quá trình nghiên cứu này, cần phân biệt được sự đồng nhất và khác biệt giữa hoạt động và quan hệ tinh thần với các hoạt động và quan hệ khác như hoạt động và quan hệ sản xuất vật chất, hoạt động và quan hệ chính trị - xã hội…
Thứ ba,chủ nghĩa duy vật lịch sứ vạch ra tính độc lập tương đối của đời sốngtinh thần xã hội. Tính độc lập tương đối này vừa thể hiện trong việc phản ánh đời sống vật chất, lại vừa thể hiện trong bản thân các hoạt động và quan hệ tinh thần. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không nhưng chứng minh rằng hoạt động và quan hệ tinh thần, nhu cầu và lợi ích tinh thần, xét cho cùng, chịu sự chi phối của hoạt động và quan hệ sản xuất vật chất, của nhu cầu và lợi ích vật chất, mà còn chỉ ra rằng những cái thuộc về tinh thần đôi khi tồn tại và phát triển một cách thuần tuý theo quy luật nội tại của chúng (tương đối độc lập). Điếu đó thể hiện ở chỗ , đôi khi những hoạt động và quan hệ tinh thần, những nhu cầu và lợi ích tinh thần lại "vượt trước" hoặc "tụt hậu” so với những hoạt động và quan hệ sản xuất vật chất, với những nhu cầu và lợiích vật chất. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng trong những giai đoạn lịch sứ nhất định, những hoạt động tư tưởng ráo riết (chăng hạn, sự tuyên truyền, truyền bá những tư tưởng cách mạng) bao giờ cũng là sự mở đầu cho một cuộc cách mạng xã hội. Nói cách khác, trong nhưng thời điểm nhất định, hoạt động tư tưởng diễn ra trước hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động vật chất - xã hội (sự thay đổi quan hệ sản xuất vật chất).
Thứ tưchủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ nghiên cứu mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các thành phần, lĩnh vực, yếu tố của đời sống tinh thần xã hội với tư cách là những trình độ, những phương thức, cách thức phản ánh đời sống vật chất, mà còn chỉ ra mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa chúng trong một hệ thống những hoạt động và quan hệ đặc biệt của thế giới tinh thần. Chẳng hạn, nghiên cứu sự tác động qua lại giữa hoạt động tư tưởng và hoạt động nghệ thuật, giữa hoạt động văn hoá hoạt động khoa học…
Như vậy, việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần xã hội ở cấp độ
Cần chú ý rằng, việc vạch ra nội dung phạm trù đời sống tinh thần xã hội còn cho phép nghiên cứu đời sống tinh thần xã hội ở cấp độ kém
Để nghiên cứu đời sống tinh thần một cách có hiệu quả, thông thường người ta phải chú trọng sứ dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về các quy luật của lý luận nhận thức, đồng thời người ta cũng phải tiếp thu những thành quả nghiên cứu trong các lĩnh vực khác như đạo đức học, mỹ học, triết học nghệ thuật, triết học văn hoá… Trong một tương quan đó, có thể thấy những kết quả nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sứ về đời sống tinh thần xã hội lại là cơ sở phương pháp luận quan trọng cho các khoa học khác.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường