Văn hóa đọc của giới công chức văn hóa
Sẽ nhiều khả năng rơi vào sự cực đoan nếu nói rằng người Việt - Nam hiện nay không có (hoặc đã đánh mất) thói quen đọc sách. Cần phải có những thống kê hết sức cụ thể thì mới có thể đưa ra những phán đoán chắc nịch theo kiểu như vậy. Tuy thế, đây là điều bất khả.
Nhiều người, để chứng minh rằng văn hóa đọc trên đất Đại Việt ngày nay đã bị khô kiệt, vẫn thường viện dẫn đến cái tương quan đối lập giữa một bên là quốc gia 80 triệu dân và một bên là con số 1.000 bản in cho mỗi đầu sách. Thuyết phục lắm! Nhưng ai dám đảm bảo rằng 1.000 bản ấy đúng là 1.000 bản, ai dám đảm bảo rằng ở đây không hề có chuyện nối bản. ai dám quả quyết rằng 1.000 bản ấy đã không bị in lậu gấp 10 hoặc hơn thế nữa, ai chắc chắn được rằng một bản sách chỉ có một người đọc hay là nó đã được chuyền qua tay rất nhiều người? v.v và v.v... Đặt ra những câu hỏi có tính chất phân biệt như vậy, tôi muốn nói rằng những lời than phiền về sự xuống cấp hoặc sự biến mất của văn hóa đọc trong công chúng độc giả Việt Nam hôm nay, đa phần là những lo lắng giàu cảm tính: Nhưng điều oái oăm là ở chỗ, cảm tính không có nghĩa là không thể đưa chúng ta tới gần sự thực! Và phần tôi, tôi sẽ không nói rằng người Việt chúng ta hiện nay không có, hoặc đã đánh mất thói quen đọc sách. Nhưng, một cách hoàn toàn chủ quan, thú thật là tôi không mấy tin tưởng vào sự tồn tại của thói quen ấy.
Chúng ta đang nói về cái sự đọc của người Việt hiện nay. Nhưng người Việt, ngay trong bản thân khái niệm này đã bao hàm những sự phân biệt về tuổi tác, ngành nghề phạm vi hoạt động, trình độ văn hoá, trình độ thẩm mỹ v.v...Mỗi một giới xã hội có một nhu cầu đọc riêng, không giống nhau. Không tính tới các loại sách phục vụ cho những chuyên môn hẹp (y tế, kỹ thuật, kế toán - thống kê, luật pháp, nông nghiệp v v :) mà chỉ nói vô loại sách vẫn được giới xuất bản gọi bằng cái tên "sách xã hội thì xét về lý thuyết, độc giả giàu tiềm năng nhất của loại sách này, theo tôi, phải là những người đang làm việc trong các ngành Văn hóa. Nói là "phải" vì yêu cầu công việc vì họ chỉ có thể làm tốt công việc họ đang làm thông qua sự tiếp xúc thường xuyên với sách liên tục trau dồi kiến thức, liên tục mở rộng và nâng cấp tri thức từ và bằng những con chữ. Thế nhưng, ta sẽ nói gì đây khi một nhà văn Việt Nam gọi điện thoại rủ bạn đến tham gia hội thảo về ông ( Susaraki (tức là nhà văn Nhật Bản nổi tiếng thế giới Murakami)? Ta sẽ nói gì đây khi ở một cửa hàng sách lớn nhất Hà Nội, người : ta đặt cuốn tiểu thuyết Từ đến Khazar của Milorad Pavic trong khu vực bày từ đến? Ta sẽ nói gì đây khi ông trưởng đoàn của một đoàn kịch nói vốn nổi tiếng một thời về việc dùng những vở kịch cổ điển của thế giới , hỏi rằng : phedre của Racine à ? Nó có hay không?": (Những ví dụ như vậy có thể dẫn ra vô khối, và xin cam đoan rằng tất cả đều là sự thật 100%): Nghĩa là, họ không đọc, mặc kệ cái yêu cầu phải đọc mà công việc đặt ra (hoặc giả họ không biết rằng công việc của mình có cái yêu cầu như thế).
Chẳng nói đâu xa, ngay ở một cơ quan báo chí cỡ bự trực thuộc trung ương, nơi mà mỗi phóng viên đều tiềm tàng khả năng "mọc mũi sủi tăm trong mắt thiên hạ, bàn chuyện văn hóa đọc là bàn tới một điều gì đó khá... xa xỉ! Có lẽ đa phần (tôi không dám nói là tất cả) các nhà báo ở đây phải làm việc quần quật cả ngày, nên tối về họ mệt mỏi tới mức không đủ sức lật một trang sách. Chính vì thế mà mặc cho dư luận sôi nổi bàn tán về các tác giả văn học Tây Tàu đương đại - nào Mạc Ngôn, Lý Nhuệ, Cao Hành Kiện. nào Murakami, nào Orhan Pamuk, nào Gunter Grass, Paulo Coelho, ltalo Cahnno, v.v ...vì họ nghe còn nhỏ hơn tiếng ruồi đập cánh. Chỉ đến khi nào công việc bắt phải "đụng" tới những vị này, họ mới nháo nhác tất bật: ông/bà ấy là ai? vết cái gì? đọc có... ra gì không? Đại loại thế. Đó là tôi mới nói tới các tác giả của văn chương hư cấu - dù sao cũng tương đối để đọc. Còn nếu kể tên tác giả của loại sách triết học - tư tưởng, sách nghiên cứu khoa học xã hội - loại sách mà Nhà xuất bản tri thức đang nỗ lực khai thác - thì chắc chắn đối với họ đó sẽ là những cái tên ngang bằng và những cái tên vô danh nhát! Xin được nhận trước khuyết điểm là tôi không thể đưa ra những con số điều tra cụ thể, như lẽ ra phải thế,nhưng tôi tin rằng ( mà niềm tin thì thường là không cần phải được chứng minh) câu hỏi đặt ra với các nhà báo nọ không nên là: một tháng các anh/chị đọc được bao nhiêu cuốn sách mà phải là: 'Trong một năm liệu các anh/chị có đọc trọn vẹn được một cuốn sách hay không?". Thật thế, rất nhiều chuyện đáng ngạc nhiên để rồi sau đó lại thấy chẳng có gì phải ngạc nhiên. ít ra là với người viết bài này. Nhân tiện cũng nói luôn nếu có ai đó định làm mời cuộc điều tra xã hội- học về cái sự đọc ở cơ quan báo chí nói trên: đừng điều tra thì hơn, vì tôi tin (lại tin) kết quả điều tra sẽ làm cho sự thất vọng của các vị đạt tới ngưỡng kinh hoàng!
Hiển nhiên là với loại độc giả như những nhà báo này - rộng ra với các công chức văn hoá kiểu này - các nhà làm sách tốt nhất là đừng định hướng mục tiêu kinh doanh của mình vào họ cho khỏi mất công. Không yêu sách, không mê đọc sách, không tìm thấy cái khoái cảm của việc cầm cuốn sách trên tay và ít giở các trang sách thơm mùi giấy mực (có vị còn rất hồn nhiên khoe rằng cứ hễ đọc vài trang sách là hai mắt dịp lại, buồn ngủ!) họ cũng chẳng việc gì phải mất thời gian ra hàng sách tìm sách chẳng việc gì phải bỏ tiền mua sách mang về. Điều đáng nói là ở chỗ, làm việc ở cơ quan báo chí cỡ bự này, họ lại rất thường được người khác tặng sách, biếu sách. Dĩ nhiên là những cuốn sách ấy không may mắn: chúng phải chịu một số kiếp đáng buồn là chẳng bao giờ được đọc - trong khi nhiều người khác cần đọc thì lại không có sách để đọc.
Nhưng việc lớn hơn mà tôi muốn bàn ra từ chuyện này, đó là sự thiếu hụt trong nhu cầu tiêu thụ văn hoá của một bộ phận lớn công chức văn hóa hiện nay trong đó có các nhà báo kể trên. Đừng hy vọng nhiều rằng những công chức văn hóa dị ứng với sách lại có thể vẫn là những công chúng đáng yêu của các loại hình nghệ thuật khác. Không có nhu cầu đọc sách, chẳng có gì đảm bảo rằng họ lại có nhu cầu nghe hoà nhạc, xem phim, xem kịch, ngắm tranh tượng, v.v... Một lý do thi thoảng vẫn được người này kẻ khác viện dẫn, là vé vào cửa để thưởng thức những loại hình nghệ thuật ấy quá đắt (đôi khi người ta cũng la làng lên là sách đắt) . Có lẽ thế thật. Nhưng hãy thử đặt số tiền để mua một chiếc vé nghe hoà nhạc hay xem vũ kịch (là những loại vé có giá khá cao, vé xem phim _xem kịch thấp hơn) cạnh số tiền mà họ bỏ ra (khống thấy tiếc) để mua một thỏi son, một chiếc váy hay thanh toán một bữa nhậu, xem sao? Bản chất của câu chuyện ở đây dường như chính là sự vắng mặt nhu cầu được tiêu thụ văn hóa, sự vắng mặt nhu cầu được thấm thầu văn hóa để từ đó nâng tầm cái tôi văn hóa của mỗi cá nhân (một nghịch lý nhưng lại rắt thuận lý: càng là những sản phẩm văn hóa nghệ thuật cấp cao thì khả năng bị ghẻ lạnh càng lớn). Vây nên, không lấy làm lạ khi ngay cả trong trường hợp không phải bỏ tiền ra mua vé (điều này xảy ra khá thường xuyên) thế họ cũng vẫn từ chối cái quyền được là khán giả của giao hưởng, của vũ kịch, của sân khấu, của điện ảnh đích thực. Rất ít có ngoại lệ: những công chức văn hóa loại này phần lớn là những người ghét sách và ghét chữ. (Có thể tôi quá lời nhưng quả thực tôi có cảm giác rằng dường như đang tồn tại một sự tái mù chữ ở một bộ phận công chức văn hóa nào đó: chữ, vốn để đọc và viết. Đọc, thì như ta đã thấy. Còn viết, không lẽ việc soạn thảo giấy đề nghị,các loại hay ký tên vào bảng lương cũng đáng được gọi là viết hay sao?) Đã đến lúc phải có lời có nghĩa cho câu chuyện này. Văn hóa đọc của toàn xã hội nói chung , nhiều bậc trí giả đã mổ xẻ và lý giải khá chi tiết, tôi sẽ không lặp lại. Riêng trong chuyện về cái sự đọc của một bộ phận thuộc giới công chức văn hóa hiện nay, xin được nói ngắn gọn rằng việc họ lười hoặc không đọc, ấy là bởi họ đang hành nghề trong một môi trường công việc mà không cần đọc vẫn có thể làm việc được.
Hai hệ quả sau có thể được rút ra từ nhận định này.
Thứ nhất, những môi trường công việc ấy - ở đây tôi đang nói tới các ngành Văn hóa - rõ tàng không đặt ra yêu cầu gắt gao về trình độ chuyên môn và nền tảng kiến thức văn hóa đối với chính những công chức của nó. Làm văn hóa dường như được bị coi là việc làm cho có, làm cho xong, ba phải thế nào cũng được.
Và thứ hai, những môi trường công việc ấy mang tính chất mở, có thể nói là tính chất dễ dãi cũng đúng, đến mức tối đa. Nó cho phép người công chức văn hóa sử dụng cái đọc của kẻ khác để phục vụ cho công việc của mình theo kiểu "hợp pháp" mà người ta vẫn hay gọi một cách rất lịch sự và nhã nhặn là "cộng tác" nhưng thực chất thì đây là con đường tầm gửi ký sinh về trí tuệ. Dĩ nhiên, không thể đòi hỏi bất cứ ai cũng phải là một người yêu sách, mê đọc sách (phải tập, có người bảo rằng, đến năm 20 tuổi mà không hình thành được thói quen đọc sách thì kể như đã... hết hy vọng trở thành người yêu sách) . Nhưng ít ra nếu hoạt động trong những môi trường mà việc đọc sách là một sự bắt buộc mang tính tự thân, vì không đọc thì không thể nâng cao tri thức để đáp ứng yêu cầu do công việc đặt ra. Vì theo tôi, chắc chắn là chúng ta sẽ phải nói về văn hóa đọc của giới công chức văn hóa hiện nay theo một cách khác.
Tóm lại tôi muốn kết thúc bài viết nhỏ này bằng một câu hỏi: Khi mà những công chức văn hoá - những người lẽ ra phải đọc sách một cách ráo riết nhất - không hoặc lười đọc sách, thì việc văn hóa đọc của toàn xã hội xuống cấp có đáng để chúng ta phải xem như một việc quá đỗi nghiêm trọng và bất bình thường hay không? Câu hỏi, tự nó đã là câu trả lời!
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí ThànhVề tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
09/05/2008Phong Doanh“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005