Quản lý bằng pháp luật như thế nào?
Ở đời “lạt mềm buộc chặt” tưởng chừng như nghịch lý nhưng pháp luật thường được hình dung là nghiêm minh, cứng rắn cũng không phải là ngoại lệ. Quản lý bằng pháp luật, cũng như quản lý nói chung, không phải là buộc diều vào cây sào tre mà hãy như trẻ mục đồng, thả diều bay lượn, đón gió trên bầu trời khoáng đạt, rộng lớn (Nhà quản lý số 5, tháng 11/2003). Muốn vậy, cần đưa cuộc sống vào luật và đưa luật vào cuộc sống, pháp luật khơi dòng lợi ích, pháp luật là cuộn dây diều chứ không phải là cây sào tre, có pháp luật cho công quyền, cuối cùng pháp luật cần gây được niềm tin nơi công lý.
Đưa cuộc sống vào luật để quản cuộc sống
Chúng ta hay kêu gọi đưa pháp luật vào cuộc sống, hay than phiền là luật chưa vào được cuộc sống. Nhưng điều không kém phần quan trọng là luật phải bắt nguồn từ cuộc sống, hỏi xem, người dân, xã hội có cần đến luật đó hay không? có nghĩa là đưa cuộc sống vào luật.
Muốn vậy, sự tham gia của nhân dân góp phần rất lớn trong việc nhận ra các vấn đề trong xã hội, tạo cơ sỏ để phân tích chính sách trước khi xây dựng văn bản pháp luật. Những người chịu tác động của một quyết sách sáp ban hành cần có co hội khả thi tối đa để đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định. Sự tham gia của công chúng cũng chứng tỏ quyền được nghe và quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải công khai và có trách nhiệm. Công chúng hiểu rõ họ cần cái gì nên có thể mách bảo nhiều giải pháp tốt mà các chuyên gia cũng không ngờ tới, khi được tham gia công chúng thấy mình thực sự là một thành viên trong quá trình đó, có vai trò tích cực trong đó nên các quyết định sẽ được tiếp nhận và ủng hộ nhiều hơn, tránh được những mối bất hoà sau này.
Trong thực tiễn, Luật Doanh nghiệp là một minh chứng rõ ràng rằng, muốn luật vào cuộc sống thì trước hết cản đưa cuộc sống vào luật. Dự thảo Luật Doanh nghiệp đã được đưa ra lấy ý kiến một cách thực chất. Song giới doanh nhân, các ý kiến đóng góp được tiếp thu khá nghiêm túc. Bởi vậy Luật đã và đang phát huy tác dụng thực tế rất lớn.
Quản nghĩa là khơi dòng lợi ích
Nếu luật bắt nguồn từ cuộc sống, biết cuộc sống cần gì, thì luật cũng sẽ đáp ứng được các lại ích điển hình của cuộc sống. Theo lẽ đời, chỉ khi chi phí giao dịch gắn với cá nhân, từng cá nhân đó mới năng động tìm cách giảm chi phí để tối đa hoá lợi ích. Vì vậy, một phi pháp luật bảo hộ tà sản tư có nghĩa là pháp luật đã góp phần bảo hộ một động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Thế nhưng, thực trạng pháp luật tài sản ở Việt Nam khá rắc rối: Đất đai, doanh nghiệp Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân. Vậy ai là người kiểm soát đích thực các quyền tài sản đó; người đang chiếm giữ hoặc sử dụng những giá trị đó có những quyền tài sản thực tế gì, làm thế nào để tài sản công cộng bị sử dụng lãng phí... Nhìn sang nước láng giềng, về mặt lý luận hình thức, Trung Quốc vấn duy trì trật tự sở hữu cũ, song trên thực tế người ta liên tục phi tập trung hóa, chia sẻ quyền quản lý tài sản, làm cho từng người dân, cán bộ, công chức đến nhà tư bản đều có lợi khi khai thác sử dụng nguồn tài sản đó. Vì thế kích thích họ sáng tạo sử dụng mọi nguồn lực. Gánh nặng quản lý công sản và rủi ro của Nhà nước giảm xuống, tăng trách nhiệm và kích thích sáng tạo cá nhân, khơi dòng cho mọi lọi ích.
Quản bằng các nguồn của pháp luật
Quản bằng pháp luật nhưng pháp luật nào, có phải chỉ là các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành? Hay còn có các nguồn khác?
Ở nước ta nguồn duy nhất của pháp luật là các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Nó có ưu điểm là bảo đảm được cái sự “nói có sách mách có chứng”. Tuy nhiên nó cũng có thể dấn đến tình trạng thẩm phán “không biết xử kiểu gì hoặc xử kiểu gì cũng được” khi pháp luật thành văn mắc phải những khiếm khuyết dấn đến cái nhìn hẹp hòi, cứng nhắc khi thực thi và áp dụng pháp luật. Hơn thế, chỉ nhìn thấy ở pháp luật những gì có lợi cho Nhà nước, ít nhìn thấy cái lọi của công dân do đó dễ dẫn đến sự áp đặt.
Pháp luật, theo cách hiểu của tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, không chỉ giới hạn trong văn bản mà bao gồm cả những nguồn khác rộng hơn, không chỉ là cây sào tre ngắn và cứng nhắc, mà cả cuộn dây diều dài và mềm mại. Ở nhiều nước trong những trường hợp cần thiết, thẩm phán không do dự áp dụng những nguyên tắc về trật tự đạo lý không ghi trong luật. Luật ở các nước Châu Âu lục địa còn trang bị cho các luật gia khái niệm công lý, chỉ dấn họ đến các tập quán, luật tự nhiên (Pháp điển dân sự Áo, Điều 7) hoặc đặt sự áp dụng luật phụ thuộc vào các tiêu chuẩn về nếp sống tốt lành và trật tự công cộng. Bên cạnh đó “lý trí”một khái niệm phổ biến trong pháp luật Anh quốc, cũng là một nguồn mà các tòa án nhờ cậy đến để lấp các chỗ sống trong hệ thống luật pháp. Vậy thế nào là lý trí? Đó là quyết định hợp lý về một tranh chấp, khi không có án lệ không có quy phạm của pháp luật, không có cả tập quán bát buộc.
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, còn cây đòi mãi mãi xanh tươi”. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, bội phần phức tạp đòi hỏi pháp luật phải luôn được đổi món mà nhiều lúc pháp luật thành văn hiện hành khó có thể giải đáp hết được mọi câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Bởi vậy, một cách tiếp cận rộng mở hơn, linh hoạt hơn là rất cần thiết. Không nên xem xét luật pháp một cách bó hẹp và theo từng câu chữ.
Bảo vệ dân và ràng buộc công quyền
Có hai dạng quản lý bằng pháp luật: đối với dân, pháp luật phải hướng tới người dân, bảo vệ các quyền công dân, dân được làm những gì pháp luật không cấm; nhưng đối với công quyên thì lại khác, công quyền chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Hay nói cách khác, đối với xã hội dân sự, pháp luật là sợi dây diều, còn đối với công quyền, pháp luật là ngọn sào tre..
Chẳng hạn, trong kinh doanh, người dân được quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm trong giao dịch dân sự, việc dân sự cốt ở nơi dân, người dân tự định đoạt, thỏa thuận với nhau là chủ yếu, chỉ khi người dân có yêu cầu, hoặc khi lợi ích công cộng bị ảnh hưởng, lúc đó công quyền mới can thiệp. Ngược lại, nếu không có điều luật nào cấm Công an giam xe nhưng cũng không có điều luật nào cho phép Công an làm điều đó thì không một CSGT nào có quyền giam xe cả. Hoặc vào một ngày đẹp trời nào đó nếu UBND một tỉnh nào đó cấm xe máy mang biển số Hà Nội lưu thông thường xuyên trên địa bàn tỉnh thì chẳng những bất hợp pháp, vì pháp luật không cho phép mà còn vi phạm Hiến pháp, vì Hiến pháp trao cho người dân quyền đi lại tự do trong cả nước.
Mặt khác, pháp luật cần “quản chặt” công quyền. Trên thực tế, cần tiếp tục củng cố những thiết chế hữu hiệu để ràng buộc công quyền vì các thiết chế hiện tại còn yếu, tòa án dường như chưa đảm đương được chức phận canh chừng sự lạm quyền của hành chính để bảo vệ dân quyên. Tòa hành chính là nơi dân có thể kiện công quyền, nhưng quá mới mẻ thẩm phán non tay nghề lại phụ thuộc mọi bề, hơn nữa còn mang tư duy mình chỉ là đại diện cho Nhà nước, chứ chưa nhận thức được tòa án đại diện cho công lý, nên ít khi dám tuyên bất lại cho công quyền.
Quản lý bằng niềm tin
Muốn quản bằng pháp luật thì pháp luật cản gây được niềm tin vào công lý. Mà muốn vậy/ pháp luật phải bình đẳng. Tinh thần bình đẳng là một yêu cầu đối với pháp luật. Bình đẳng trong các quy định thành văn và cả khi áp dụng luật Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp Nhà nước vần được ưu đãi hơn rất nhiều so với doanh nghiệp tư nhân, điều đó không chỉ kìm hãm nền kinh tế, cản trở môi trường đầu tư mà còn đánh mất niềm tin vào pháp luật. Hoặc một người đàn bà, vì không biết mà sử dụng 250.000 đồng tiền giả, nên tòa án đã “nghiêm minh” tuyên 2 năm tù giam; trong khi đó một trạm cảnh sát giao thông ăn tiền mãi lộ, bị “bắt tận tay, day tận mặt” mà chỉ bị xử lý nội bộ. Vậy thì sự bình đẳng trước pháp luật ở đâu? Trong trường hợp thứ nhất, điều cần làm là rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật tương ứng để xoá bỏ sự phân biệt bất bình đẳng đó. Còn trong trường hợp thứ hai rõ ràng là những viên cảnh sát giao thông kia phải chịu trách nhiệm hình sự, chứ không thể vì “con ông nọ, ông kia" mà “nâng lên đặt xuống” rồi cho chìm vào quên lãng.
Muốn giành được niềm tin, tòa án áp dụng pháp luật phải công minh không thiên lệch, việc xử kiện không được kéo dài “chờ được vạ thì má đã sưng", việc thi hành án, nhất là án dân sự phải được thực hiện dứt điểm, thẩm phán thể hiện danh hiệu cao quý chứng tỏ sự vô tư, công bằng, chỉ phục vụ pháp luật thì mới gây được niềm tin vào chốn pháp đình.
Nếu cầu viện công lý là một quyền cơ bản của người dân thì tòa án có nghĩa vụ phục vụ quyền co bản đó đảm bảo công lý là một dịch vụ công mà Nhà nước cung cấp cho người dân. Chỉ khi toàn bộ tinh thần của hệ thống tư pháp phụng sự tự do sở hữu và tự do khế ước thì hệ thống đó mới có thể đáng tin cậy với người dân. Khi đã có niềm tin, người dân sẽ chủ động tìm đến các công cụ pháp lý để “quản” các cơ quan công quyền, tự tuân thủ pháp luật và tự bảo vệ mình.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu Nhơn