Một bước ngoặt
Trong suốt chiều dài lịch sử, thương mại vốn không được coi trọng trong một nước “nông vi bản”, nghề buôn bị coi khinh, thương nhân bị xếp thấp nhất trong thang bậc của hệ thống giá trị xã hội. Việt Nam cũng là nước có trình độ thương nghiệp thấp nhất trong các nước chịu ành hưởng của Nho Giáo. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tự cấp, tự túc kéo dài triền miên, năng suất thấp, hàng nghìn năm không có mấy đổi thay về kỹ thuật sản xuất, không sao chuyển nổi sang kinh tế hàng hóa. Quá trình đô thị hóa rất chậm, ngay nhiều nơi gọi là thành thị, thị trấn thì cũng chỉ là nông thôn kéo dài và biến tấu chút đỉnh, chứ không phài là nơi tác động thúc đẩy nông thôn bằng kinh tế hàng hóa. Không có truyền thống thương mại, cho nên, một đất nước bán đảo mà nền kinh tế biển không phát triển, không có được đội thương thuyền vượt biển đi xa. Có đến trên 3000 km bờ biển, nhưng người Việt không làm ngoại thương! Đã quen “năng nhặt chặt bị” , “vặt đầu cá, vá đầu tôm” bên chiếc ao làng trong lũy tre xanh, ra sát mép nước Biển Đông rồi vẫn “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà đã quen” thì làm sao dám mạo hiểm đi xa! Sóng biển vỗ bờ rồi sóng lại đều đặn lặng lẽ rút ra, những dòng thủy triều lên xuống cũng đều đặn như vậy chỉ kích thích cái lẽ tuần hoàn trong nếp nghĩ, trong cách suy luận. Chỉ “tuần hoàn”, đi rồi về, quay lại điểm cũ chứ không có phát triển. Lối suy nghĩ ấy định hình khái niệm xoay vòng, đắp đổi theo sự vận hành của bốn mùa trong vũ trụ, không có đột biến, không có cách tân. Ấy thế mà chính thương mại lại là ngành kinh tế năng động nhất, tự thân nó đã đầy “sóng gió”, rồi chính nó cũng tạo nên “sóng gió”, khuấy động. giục giã, đánh thức những ai đang ngủ quên trên “chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đang chuyển động bằng lặng với “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” nơi chốn ao làng yên tĩnh, yên tĩnh đến độ nghe được tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo”! Chính thương mại thúc đẩy tính năng động xã hội, phá vỡ tính ổn định trì trệ, dẫm chân tại chỗ. Nó đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng về chính trị và xã hội để mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường dịch vụ… Điều này mâu thuẫn gay gắt với đòi hỏi của sự ổn định trì trệ củaxã hội “nông vi bản” và của thể chế chính trị thích ứng với nền tảng kinh tế của nó. Thậm chí, khi chủ nghĩa thực dân quyết mở rộng không gian kinh tế, theo sau những thuyền buôn là các chiến hạm áp sát cửa biển nước ta, súng đại bác trên các tàu ăn cướp đã sẵn sàng nhả đạn thì các triều thần của vua Tự Đức vẫn giữ nguyên kiểu tư duy “yên bình, không có gì thay đổi”, vẫn “thế chưa thể vội được”. Triều thần còn lạc hậu hơn vua. Khi Tự Đức yêu cầu tính chuyện thông thương, các trọng thần bèn tâu: “thông thương là việc cần kíp, duy chỉ nước khác làm thì dễ, ta làm thì khó, vì các dân châu Âu phần nhiều theo nghề buôn, lại khéo đi biển…Còn nước ta thì từ trước cấm dân đi ra hải ngoại, dân không đi buôn xa, trong nước không có bọn buôn, mà nmuốn dắt người buôn nước ngoài đến, thế chưa thể vội được”.
Mất nước là chuyện chỉ ngày một ngày hai. Bao đời đứng trước biển, nhưng cái ý hướng quay về đất liền, dựa vào núi, “tâm thế lục địa” vẫn mạnh, vẫn áp đảo tâm thế hướng ra biển, “tâm thế đại dương”. Cho đến thể kỷ XIX, trên đất nước bán đảo hình chữ S này, nền ngoại thương vẫn rất lạc hậu. Bởi lẽ, ngoại thương cần gắn với biển, khai thác lợi thế của biển, lợi thế của vị trí địa- chính trị, nằm ở ngả tư con đường hàng hải, nối Ấn Đô Dương với Thaí Bình Dương. Để phát triển ngoại thương, phải có có cách nhìn mới, tầm nhìn khác với cái nhìn, tầm nhìn được tạo dựng từ cái vốn hiểu biết quá lạc hậu : “Hỏi ông mộ những gì ư? Ông rằng“mộ những người xưa là thầy”. Quay đầu về xưa, luôn cho là xưa hơn nay là đặc điểm của cái học thủ cựu tự mãn, tự túc kiểu “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung” của nhà Nho mà những đầu óc canh tân muốn “…đập mạnh thét dài, Cho người mê ngũ ai ai tỉnh dần”. Với cái tâm thế “Khỏi làng mắt chửa thấy xa, Lại toan mai mỉa hai nhà Khang Lương. Ở nhà chân chửa ra đường, Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ” thì rõ ràng không thể đi xa, không dám vươn xa ra biển được. Chỉ ra những hạn hẹp nói trên, “Cáo hủ lậu văn” đã lên án và đòi “đập mạnh thét dài” nhằm xua đi sự thiển cận, trì trệ, bảo thủ, đòi mở cửa, đòi canh tân “Người sao trời rộng đất dài, Ta sao co quắp một nơi thế mà! Người sao nhẹ thẳng bay xa, Ta sao co kéo xó nhà với nhau? Những tiếng kêu phẫn nộ, những đòi hỏi thiết tha ấy như rơi vào không trung? Liệu có phải thế không? Ngoại thương không phát triển được có nguồn cơn từ đó. Mà ngoại thương lại là yếu tố năng động và thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển của đất nước : do sự giao lưu về kinh tế mà buộc phải mở cửa thông thoáng và cởi mở tiếp nhận những thành tựu của thế giới, không chỉ về kinh tế mà còn về văn minh, văn hóa. Khi bước vào đấu trường WTO, nước ta vẫn đang là vận động viên chạy áp chót cũng khởi nguồn từ những điều trên. Trên ý nghĩa đó mà cần hiểu ra rằng, việc gia nhập WTO là một bước ngoặt có ý nghĩa lớn không chỉ về kinh tế trong hành trình dài lâu của dân tộc ta, mà còn là bước ngoặt về về văn hóa, về tâm thế của dân tộc. Chính vì thế, có nhà sử học đã phân tích về ý nghĩa của “sự kiện WTO” như là một cột mốc của “sự thay đổi cá tính dân tộc”*, mà cá tính là vấn đề văn hóa, là sự chọn lựa văn hóa. Cũng có nhà văn đã gợi lên những sự chọn lựa đó của ông cha ta trong lịch sử. Dễ thấy nhất là sự chọn lựa cực kỳ thông minh đã đẩy tới những bước ngoặt của lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước vào những thế và lực mới. Sự chọn lựa lần thứ nhất ớ cuối thiên niên kỷ thứ nhât, đầu thiên niên kỷ thứ hai, với việc từ bỏ cái gốc văn hóa Đông Nam Á tuy uyển chuyển và mềm dẻo song phân tán, không đủ mạnh để đủ sức chống trả sự bành trướng của thế lực Hán hóa, để dám tiếp nhận nền “văn hóa Hán hóa” nhằm nhằm tạo ra một nhà nước mạnh đủ sức chống chọi lại với họa xâm lược đến từ một nước khổng lồ với chính nền văn hóa Hán đó! Cuộc chọn lựa lần thứ hai là chon lựa Nam tiến, khởi đầu từ Nguyễn Hoàng, là một chọn lựa “phi Hán hóa”, trở về cái “gốc Nam” của mình để “vừa cứng theo lối Hán vừa mềm theo lối Việt để tạo nên một sức mạnh uyển chuyển rất độc đáo và hiệu quả, một lực gia tốc phát triển kỳ lạ”**. Nhưng rồi, sai lầm của việc đóng cửa khước từ canh tân để chủ động tiếp nhận những thành tựu của văn minh, văn hóa phương Tây, nhằm tạo nên thực lực đủ để chống lại chủ nghĩa thực dân cũng của phương Tây ấy, như trước đây tiếp nhận văn hóa Hán để chống lại sức mạnh của chính quốc gia có nền văn hóa Hán, mất nước là cái đã trông thấy nhãn tiền! Văn hóa, sức mạnh của “văn hiến”- văn hóa và hiền tài, là bài học dựng nước cũng như bài học giữ nước ông cha ta đã truyền dạy cho mọi thế hệ Việt Nam. “Nước ta là một nước văn hiến”. Phải bằng sức mạnh ấy mới đủ sức căng buồm thời đại, đón gió đại dương đưa con thuyền đất nước ra biển lớn. Thử thách của “hậu WTO” là thử thách của trình độ kinh tế, những quan trọng hơn, sâu xa hơn và cũng là cơ bản nhất là thử thách về bản lĩnh văn hóa, về sức mạnh văn hóa của dân tộc. Nói bản lĩnh của dân tộc là nói bản lĩnh của mỗi một người Việt Nam yêu nước, quan tâm đến vận nước, đồng thời nói đến bản lĩnh của người lãnh đạo. Phải thấy rõ, thấy sâu chiều cạnh văn hóa, nhận cho ra cột mốc của sự chọn lựa văn hóa và thay đổi tâm thế của dân tộc mạnh dạn hướng ra biển, thay “tầm nhìn ao hồ, sông rạch” bằng “tầm mắt đại dương” từ “sự kiện WTO” mới đủ can trường và nhẫn nại rèn bản lĩnh ấy.
Nguồn:
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị Quý