Kế sách xây dựng nền học mới để đạt đến văn minh (2)
Xem lại:Phần đầu...
Nay đã từng ngửng đầu trông lên, cúi đầu nhìn xuống, trầm ngâm suy nghĩ cho cùng, để tìm kế mở mang dân trí giữa nghìn muôn khó khăn, thì thấy chỉ có sáu đường:
Một là dùng văn tự nước nhà. - Văn tự trong thiên hạ bắt đầu từ ba nhà Khư Lư, Thư Tụng và Thương Hiệt 1). Những văn tự mà các nước đồng văn với ta vẫn dùng lối viết từ trên xuống dưới. Văn tự đặt ra là cốt để ghi tiếng nói. Cho nên trong Ân bàn 2), Chu cáo 3)đều là văn bạch thoại; mười lăm thiên Quốc phong đều là những tiếng địa phương người Trung Quốc cũng đã nói rồi. Các nước trên địa cầu, nước nào chẳng vậy. Như nước Xiêm, nước Lào, họ còn có thứ văn tự của họ là lối “hài thanh, hữu hành” 4). Nước Nhật gần đây cũng đặt ra thứ chữ riêng của họ. Còn nước ta thì vẫn chưa có. Ấy là một điều rất kỳ! Thiết nghĩ nước ta đời xưa hẳn là cũng có văn tự, chẳng qua lâu ngày thất truyền đi đó thôi.
Gần đây mục sư người Bồ Đào Nha chế ra chữ quốc ngữ, lấy 26 chữ cái châu Âu phối hợp với 6 âm, 11 vần, đánh vần theo lối hài thanh mà đọc ra tiếng ta, rất là giản dị, nhanh chóng. Tưởng nên một loạt học theo. Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để cho trong thời gian vài tháng, đàn bà trẻ con cũng đều biết chữ: và người ta có thể dùng quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay và thư từ thì có thể chuốt lời và đạt ý. Đó thực là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy.
Học trò xếp hàng trước khi vào lớp
Hai là hiệu đính sách vở. - Nước ta từ xưa tới giờ, các nhà viết văn kể cũng khá nhiều, như Khâm định Việt sử cương mục, như Thực lục, Liệt truyện, Nhất thống chí, Lịch triều chí, Vân đài loại ngữ, Công hạ kiến văn, Địa dư chí, Gia Định chí, Nghệ An phong thổ thoại, Đồ Bàn thành ký, Hưng Hóa thập lục châu ký, Phú Man tạp lục, v.v.… đều đủ để cung cấp tài liệu về sơn xuyên, phong tục, văn vật, điển chương và để cho người sau mượn đó làm gương nữa. Vậy mà người mình, một khi đi học là đọc ngay sách Tàu, bỏ sách nước ta không nhìn đến! “Tịch Đàm vong tổ” 5), thật đáng thương thay!
Nghĩ lại, sách Tàu chép chuyện Tàu, đã không quan hệ gì với ta cho lắm, rồi đến những thứ mà các tiên nho đời Tống, đời Minh vẫn gọi là vây cánh cho kinh điển thánh hiềm đại loại như các tập Tiểu thuyết, Tồn nghi, Đính nghi, Sảng tâm, Mông dẫn, Kinh án, cho đến Thí thiếp và Sách lược đầy rẫy những lời bàn luận của các nhà đại gia, thì cũng chẳng khác gì bọn múa giáo trong buồng, lục đục bác bẻ lẫn nhau, bịa ra câu hỏi, rồi lại bịa đặt lời đáp, chỉ tổ làm rỗi tai mắt người ta và nhọc nhằn cho kẻ học phải ghi nhớ mà thôi.
Xin thử nghĩ: “Xuân vương chính nguyệt” chỉ là một lời chép trong kinh Xuân Thu, thế mà người thì bảo là theo tháng giêng lịch nhà Hạ, kẻ thì cho là theo tháng giêng lịch nhà Chu, châu mỏ vào mà cãi và rút cục hàng trăm, hàng nghìn năm nay, bàn luận vẫn không ngã ngũ ra sao cả! Cột đồng Mã Viện chỉ là một vết tích của người xưa, thế mà hoặc cho là ở châu Khâm, hoặc là cho là ở châu Liêm, hoặc cho là ở phía nam nước Lâm Ấp, phung phí có đến hàng mấy vạn chữ mà chung quy vẫn không tìm ra mối manh gì, rồi phải đặt ra lời đoán, phỏng chừng: có lẽ lâu năm đã sụp đổ xuống biển. Ôi! Giả thử có gọi thánh hiền từ âm phủ về được để chỉ rõ cho ta, cũng chẳng có ích gì, huống hồ chỉ uổng công tìm tòi mà chẳng được nào! Kinh, sử còn thế, đủ biết sách khác thì thế nào!
Người đời mấy khi sống được trăm năm, thế mà dốc hết tinh thần hữu dụng đem giam vào đống sách đầy xe, ngất nóc! Đời người còn có những nghĩa vụ phải làm, thế mà nửa phần cái tài trí vô cùng lại bị hao mòn vào chồng giấy loại mọt đục, mối ăn! Vậy thì sách vở hả lẽ không nên đem ra hiệu đính lại sao? Tưởng nên đặt ra một tòa soạn sách: pho nào nên đọc, pho nào không nên, đặt thành cái chương trình học để theo từng cấp mà học cho hết. Tựu trung như Hiếu kinh, Trung kinh, Tiểu học toàn chú, Tạc phi am và nhữmg lời hay nết tốt của các hiền triết Đông, Tây xưa, phàm những điều có bổ ích cho nhân tâm thế đạo, đều nên trích lấy đại yếu, viết thành một tập, rồi lại dịch ra quốc ngữ để làm độc bản cho lớp sơ học. Kinh truyện thì chỉ chọn lấy chính văn 6). Sử thì chỉ chép lấy thế thứ hưng vong, những lý do các việc lớn thành hay bại và khuôn phép chế tác, sáng lập. Đại khải lấy Nam sử làm phần chính, rồi dịch nghĩa ra. Lại thêm vào đấy những bản đồ về làng nước, đường sá, dinh điền để bổ sung vào. Sử Tàu thì chỉ đọc qua cho biết đại lược. Sử Tây thì có các tập Ngũđại châu địa đồ, Vạn quốc cương giám, Cận chính sử yếu, Tây học khảo, v.v... Cần phải bỏ bớt những chỗ rườm rà để cho người học dễ hiểu là được rồi.
Ba là sửa đổi phép thi. Nghĩa lý kinh điển rất là tình thâm, thế mà muốn mượn văn chương nông cạn để dò xem thực học thì có đúng lý không? Bách gia rộng rãi mông mênh, không biết đâu là cùng, thế mà muốn do sự ghi nhớ của một người để xét nghiệm chân tài, phỏng có hợp tình không? Vậy nên sách vở đều có hiệu đính rồi, mà phép thì còn chưa sửa đổi, thì cũng chưa phải là tận thiện đâu.
Này nhé: nào là kinh nghĩa, là phú, là thơ, là chiếu, là biểu, là luận, là văn sách, đều là phép thi của ta cả đấy. Nhưng không biết những lối phá, thừa, khởi, thúc, thanh, luật, biền ngẫu, có gì ích cho thực dụng không? Lại không biết trong bọn các cụ đồ giả, các thầy thạo văn cử nghiệp, có ai là người biết được đến năm châu là những châu gì, thế kỷ ngày nay là thế kỷ thứ mấy? Thế rồi trong lối văn thì, cắm liên thượng phạm hạ, cấm lạc vận, thất niêm, cấm viết sai, viết sót chữ trong đầu đề, cấm thiệp tích ở trên hay bốn bề xung quanh dẫu giáp phùng 7) hoặc dấu nhật trung 8) đã đóng, cấm những chỗ đồ 9), di 10), câu 11), cải 12), không được sai suyễn. Mực thước đến thể kể cũng đã hết chỗ nói. Nhưng chẳng qua chỉ làm cho người ta bó buộc cái tính tự do, suy sút tinh thần hàng hải, để chăm vào cái học vẫn rất vô dụng mà thôi! Chúng tôi đọc tờ Thếgiới nhất cược13) có bài “Khoa cử quái” 14) nói “khoa cử nọc độc, khoa cử thối nát”, tưởng không phải là lời quá khích.
Than ôi! cái trưởng “thất tự” 15), cái “vì mại tính” 16), nếu có vì nhân từ đó mà ra nữa kể cũng là một cái may thôi. Giờ đây, đầu chưa thể theo lối Thái Tây mà đặt ra khoa chuyên môn, thì trong khi căn cứ vào văn chương để kén người, có thể tạm dùng luận và văn sách cũng còn có lý đôi chút. Ngay như nước Tàu, từ khoa Canh Tý đến nay cũng đã bỏ lối bát cổ mà thi sách, luậnrồi. Có lẽ ta cũng nên chỉ dùng hai lối văn ấy để mà khảo sát học sinh. Lấy kinh, truyện và ba sử (sử Nam, sử Tàu, sử Thái Tây), đặt đề mà hỏi, cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải nề hà, không cần thể cách gì hết. Rồi thêm vào đó, mấy bài về toán pháp, về chữ quốc ngữ, để cho cái mà học sinh học và thi không trái ngược với công việc thực tế họ phải làm, như thế thì cũng đã là tàm tạm đúng vậy.
Bốn là cỏ võ nhân tài. - Trong bài tựa Cường học hội17) có nói: “Dục khai dân trí, tiên khai thân trí”, nghĩa là muốn mở dân trí, trước phải mở trí phái thân sĩ. Đó là một lời nói rất phải, khám phá được tận gốc. Vì tầng dân chúng thì bắt chước bọn nhà nho, hậu sinh thì trông gương bậc tiền bối, tai mắt vẫn có quan hệ với nhau. Bây giờ sách vở đã hiện đính, phép thi đã sửa đổi, thì chỉ có thể chờ đợi ở số vài trăm nghìn vạn người, tức là các viên thừa biện, hành tẩu, hậu bổ, huấn đạo, giáo thụ, các ông tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài và các cậu tôn sinh, ấm sinh, học sinh; nếu các người đó còn chưa phát huy được những điều mới nghe, mở rộng được tri thức mới, để cho cả một loạt đầu mới, thì chẳng hóa ra cựu giới và tân giới hai đàng sẽ xung đột cùng nhau sao? Nhà Giám tiếng là chỗ bồi dưỡng nhân tài, nhưng những điều dạy dỗ và học tập đều là văn chương của thời đại, có quan hệ gì với thực tế đâu. Trường Quốc học lập nên đã có 8, 9 năm nay, không phải không đào tạo ra được những tay giao thiệp giỏi, nhưng cũng chưa hề nghe thấy có ai hỏi han đến họ. Có học mà không dùng được thì ai theo đuổi làm gì? Vậy tưởng nên sức cho các viên học quan xét xem người nào đã tốt nghiệp rồi thì bổ vào làm việc trong bộ, trong viện, hễ có tờ thông tư thì bảo họ dịch ra, hễ có cuộc thương nghị thì đem họ đi theo, để người đi học không lo rằng một người Tề dạy bảo, mà bao nhiêu người Sở lại la ó 18) ; và người đã thành tài thì không ngại rằng tài nước Sở dùng sang nước Tần. Còn những ai không học được chữ Tây thì lập một Sĩ học viện để thâu nạp lấy họ, rồi đem các sách Công pháp, Tây sử, Luật lệ, Hội điển, Địa đồ, Toán học, v.v... chứa đầy vào trong viện ấy, đặt rõ chương trình, kỳ hạn, bắt họ phải giảng giải, bồi bổ lẫn cho nhau. Hằng năm sát hạch, ai trúng thì được bổ dụng vào chỗ khuyết. Như vậy thì chẳng đến vài năm, người trong cựu giới sẽ quay sang tân giới cả.
(Còn nữa)
Chú giải:
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/20147 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh Linh