“Đức lưu phương”: quan niệm để đức cho đời sau

11:56 SA @ Thứ Tư - 13 Tháng Hai, 2019

Trong bài ca cổ Tôi mến làng tôi của soạn giả Viễn Châu do Hề Minh ca, có đoạn nhân vật “tôi” kể với khách: “Tôi nghĩ dầu gì mình cũng là cốt cách nhà nho, bởi vậy nên hồi Tết năm rồi tôi bảo sắp nhỏ nó mua một bức hoành phi có đề ba chữ “đức lưu phương” treo giữa bàn thờ và ngoài cổng còn ràng ràng hai câu đối đỏ”...

Trong truyện ngắn Đức lưu phương của tác giả Vĩnh Thông đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số tháng 6-2015, nhân vật “bác Ba” đã giải thích với hai đứa trẻ là Kim và Nhân ý nghĩa của ba chữ “đức lưu phương”: “Nghĩa là đức của dòng tộc mãi lưu truyền danh thơm. Nhớ nghe tụi bây!”. Trong truyện ngắn này, cụm từ “nhớ nghe...” được lặp lại nhiều lần và ở cuối được thay đổi bằng các nhân vật phù hợp, như một sự nhắc nhở hãy ráng gìn giữ ngôi nhà cổ có bức hoành phi kia, cũng như ráng làm sao giữ cái truyền thống tốt đẹp để “đức của dòng tộc mãi lưu truyền danh thơm”...

Trước đây, ba chữ “đức lưu phương” thường được chạm trên gỗ thành một bức hoành phi và sơn phết cẩn thận, đặt ở gian thờ chính hoặc treo trước cửa nhà một cách trang trọng. Ngày Tết, người ta quét dọn nhà cửa gọn ghẽ, sắp xếp lại bàn thờ, lau chùi lư hương, sơn phết các cột, thay mới hoặc vẽ lại các bức hoành phi, câu đối. Dĩ nhiên, bức hoành phi có chữ “Đức lưu phương” cũng được sửa soạn lại một cách trân trọng. Đó là một thói quen, một tập tục ít nhiều mang một giá trị tín ngưỡng: có niềm tin chân thành vào một sự phù hộ của ông bà, của tiền nhân, đồng thời thể hiện tinh thần thành kính người xưa và các giá trị mà người ta cho là vững bền với tháng năm.

Cũng có người giải thích “đức lưu phương” là lời khuyên răn người trong gia đình, dòng tộc phải hành thiện, tích đức để con cháu được tiếng thơm và hưởng phước. Cách giải thích này có phần thực dụng hơn nhưng rõ ràng cũng là lời kêu gọi có tác động tích cực và cũng phù hợp với quan niệm của người Việt: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.

Dù nhìn nhận ở góc độ nào thì người xưa cũng rất chú trọng vấn đề đạo đức và để đức cho con cháu. Ca dao có câu: “Người trồng cây hạnh người chơi/Ta trồng cây đức để đời mai sau”. Trồng cây hạnh thì để chơi đôi ba năm (làm kiểng) nhưng trồng cây đạo đức thì để cả đời mà cũng còn để lại cho mai sau con cháu có thể hưởng quả thơm trái ngọt. Điều này còn mang một ý nghĩa sâu sắc nữa đó là việc “trồng đức” có thể không nhìn thấy kết quả ngay mà là sự tích lũy lâu dài, từng chút một, thế hệ này “trồng” thế hệ sau sẽ được hưởng.

Với lời dặn dò “đức lưu phương”, rõ ràng ông cha ta trước đây đã có một quan niệm rất tích cực trong việc dạy dỗ con cháu nói riêng và trong việc lưu giữ các giá trị sống tốt đẹp, trong đó, phải sống có đức - từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếc rằng quan niệm đó hiện nay đã nhạt nhòa.

Ông bà ta đã đúc kết: “Ở có đức mặc sức mà ăn”. Ca dao thì có câu: “Ở hiền thì lại gặp lành/Những người nhân đức Trời dành phúc cho”. Tức là làm việc tốt, sống tử tế sẽ có kết quả tốt đẹp, mà lắm khi những điều đó có sự mầu nhiệm, như là báo ứng của đấng tối cao. Nhiều người vẫn thường kể cho nhau nghe chuyện về những người gặp tai nạn lớn hay lâm trọng bệnh nhưng vẫn vượt qua được đó là do bản thân họ hoặc gia đình, dòng tộc họ có phước lớn, mạng lớn. Quan niệm này có phần nặng về tâm linh nhưng không phải không thể lý giải được, và cũng không phải không từng có trong thực tế cuộc sống - dẫu là ngẫu nhiên hay có một “huyền cơ” nào đó - thì cũng có ý nghĩa động viên mọi người năng hành thiện tích đức. Chẳng hạn một người hay làm việc thiện, sống chan hòa với mọi người, khi có đứa con bị bệnh thập tử nhất sinh thì được nhiều người khác vì cảm ân đức của người cha mà dốc lòng, thậm chí hy sinh để cứu chữa. Những điều tương tự không hiếm trong cuộc sống, luôn có tác dụng khích lệ con người sống tốt hơn. Bởi vậy, ca dao cũng nhắc nhở chúng ta: “Cây xanh thì lá cũng xanh/Cha mẹ hiền lành để đức cho con”...

Ông bà ta cũng cảnh báo: “Khúc sông bên lở bên bồi/Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm”. Nếu đời trước không có đức, không vun bồi âm đức thì đời sau sẽ càng tệ rạc, thê thảm. Hẳn thực tế đã chứng minh không chỉ bằng hình tượng khúc sông bồi lở. Có những gia đình cha mẹ buôn gian bán lận, đầu trộm đuôi cướp thì con cái gần như đều hư hỏng. Và nếu những người con đó không nỗ lực sửa đổi thì thế hệ sau lại càng kém hơn. Nói “báo ứng” theo duy tâm cũng được mà lý giải theo quan điểm duy vật cũng không sai!

Từ ý nghĩa rất hay của ba chữ “đức lưu phương”, ở Sài Gòn ngày xưa có một nhà in danh tiếng mang tên Đức Lưu Phương. Chủ nhân là ông Trương Văn Tuấn (chồng bà Nguyễn Thị Hương). Có tài liệu ghi rõ bà Hương là con gái của Thái đầu sư Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950), chức sắc tiền khai thuộc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh. Nhà in này có địa chỉ ở 158 rue d’Espagne (đường Lê Thánh Tôn ngày nay), tồn tại trong khoảng thập niên 1920-1930. Một số tác phẩm của Lê Hoằng Mưu đã được in tại đây như Đầu tóc mượn (1926), Đêm rốt của người tội tử hình (1929), Người bán ngọc (1931); hay các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Cười gượng (1935), Một đời tài sắc (1935), Nợ đời (1936), Tại tôi (1938), Cha con nghĩa nặng (1938)... Nói về nhà in này có lẽ cần thêm những nghiên cứu làm rõ vai trò đối với việc truyền bá văn hóa ở nước ta trước năm 1945, nhưng nhìn qua các tác phẩm như vừa nêu, có thể hiểu phần nào tôn chỉ hoạt động của những người sáng lập và điều hành nhà in.

Với lời dặn dò “đức lưu phương”, rõ ràng ông cha ta trước đây đã có một quan niệm rất tích cực trong việc dạy dỗ con cháu nói riêng và trong việc lưu giữ các giá trị sống tốt đẹp, trong đó, phải sống có đức - từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếc rằng quan niệm đó hiện nay đã nhạt nhòa, thậm chí có nhiều thay đổi, do tác động của nhiều yếu tố. Phải chăng khi kêu gọi gìn giữ các giá trị văn hóa mang tính bản sắc của dân tộc thì cũng nên nói nhiều hơn về quan niệm “đức lưu phương” một thuở?

Với lời dặn dò “đức lưu phương”, rõ ràng ông cha ta trước đây đã có một quan niệm rất tích cực trong việc dạy dỗ con cháu nói riêng và trong việc lưu giữ các giá trị sống tốt đẹp, trong đó, phải sống có đức - từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếc rằng quan niệm đó hiện nay đã nhạt nhòa.

Nội dung liên quan

  • Năm mới suy nghĩ về hai chữ Phúc và Đức

    13/02/2019Đức ThiệnPhúc bao giờ cũng đi đôi với Đức. Ai cũng trách phúc lợi, phúc lộc nhưng lại quên phúc đức, phúc thiện. Muốn được phúc phải có đức và ngược lại, đó là quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội, tôn giáo...
  • Lý do kinh tế và di hại đạo đức

    01/12/2018Vương Trí NhànTrong sự bê bối về giáo dục hiện thời, ai cũng thấy là lỗi trước tiên thuộc về những người quản lý và hoạch định chính sách. Nhưng chẳng nhẽ những người lên bục giảng vô can chăng? Vậy thì lỗi của các thầy ở đâu? Tại sao không người trong cuộc nào lên tiếng?
  • Lời dạy của Đức Khổng Tử

    02/04/2018Đọc hết mới là kẻ trọng đạo lý,
    hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người.
    Hình hài của mẹ của cha
    Trí khôn đời dạy, đói no tự mình...
  • Lâm chung di chiếu - bản di chúc ngót 1000 năm tuổi

    27/01/2017Phan Duy KhaDi chúc của những người đứng đầu đất nước thì quan trọng hơn nhiều, nó liên quan đến vận mệnh của một quốc gia, sự tồn vong của một triều đại...
  • Bản di chúc đặc biệt của một nhà triệu phú tại Washington D.C

    29/07/2015Hà Phương biên soạnBa mươi năm trước đây tại thủ đô Washington D.C, vợ của một nhà doanh nhân đã đánh rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông. Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó, bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa 100.000 USD mà còn có cả các tài liệu marketing rất quan trọng...
  • Di chúc

    02/09/2014Lăng Đỉnh QuânChỉ vài chục dòng ngắn ngủi trong gia phả 3 đời gia đình họ Phương mà như lược lại lịch sử xã hội Trung Quốc suốt một thế kỷ, quả là bút pháp tài tình. Từ chỗ coi đạo làm trọng, rồi cuốn theo một lý tưởng cách mạng, cuối cùng là giật mình khi cơn lốc thời mở cửa hội nhập...
  • Di chúc

    23/01/2014Có một ông xẩm mù cao tuổi, ngón đàn của ông thật tuyệt diệu, nổi tiếng xa gần. Ông mang theo một đứa bé mù, đi hát rong kiếm sống, lang bạt khắp nơi...
  • xem toàn bộ