Bàn về từ nguyên của thuật ngữ “quản lý” và “quản lý hành chính”
“Quản”là hoạt động trông coi, điều khiển để duy trì trạng thái ổn định và phát triển của đối tượng quản lý, “trị” ở đây là trạng thái ngược với “loạn” – vì vậy, “trị” còn là mục đích, là mong muốn tốt lành của chủ thể đối với đối tượng quản lý.
Muốn mài hòn ngọc thô thành vật trang sức theo ý mình, người thợ dựa vào mạch, gân, vân - cái “lý” của ngọc, với hoạt động quản lý, muốn đối tượng được “trị” thì chủ thể phải “quản” theo cái “lý” (mục tiêu) đã lựa chọn từ các quy luật tự nhiên, xã hội cá nhân có liên quan. “Lý" trong quản lý không phải là một từ mang một nghĩa bất biến, đó là một phạm trù triết học chỉ quy luật tự nhiên của bản thân sự vật, quy luật của sự vật, quan niệm, nguyên tắc, quy phạm của luân lý,cái lý ấy tồn tại và phát triển cùng sự vật. Dù chủ thể, đối tượng hay môi trường quản lý...đều có những quy luật tự nhiên của nó - nắm bắt và sử dụng chúng là trách nhiệm, là cái tài và cái tâm của nhà quản lý.
“Hành” trong “hành chính" là “làm” công đoạn hai của quy trình nhận thức. Con đường nhận thức vốn từ trực quan đến tư duy và từ tư duy trở về thực tiễn, trở về thực tiễn không chỉ để cải tạo đối tượng
Nhận thức | Trực quan | Tư duy | Thực tiễn | Kinh nghiệm |
Tri | Hành | Kiếm |
Tổng kết kinh nghiệm để thực hiện chu kỳ quản lý sau có hiệu quả cao hơn- nhà “Kinh nghiệm thực tiễn" của chu kỳ trước.
Quản lý | Nhận tin | Lập kế | Thực hiện | Kiểm tra | |
Hoạch định | Thực hiện | Chỉ đạo | Tổng kết | ||
Là sinh vật cóý thức, con người biết “suy” khi sắp làm, biết “xét" khi đã làm nên, chỉ “hành” khi đã “tri”. “Tri” là “tri lý” (xong nhân bất học bất tài lý), là công đoạn đầu tiên của chu kỳ nhận thức và cũng là công đoạn đau tiên của chu kỳ “quản lý” - nhằm nắm cái lý, quy luật nắm co sở lý luôm co sỏ pháp lý. Mức độ hiểu hay tầm hiểu biếm là nghĩa của từ “lĩnh” (lãnh) - hiểu được lời bàn luận là “lãnh giáo”, “lãnh” vốn là “cái cổ áo” ngày trước, muốn cho áo được ngay thẳng (chính) phải xóc áo, muốn xóc phải nắm giữ (trị) cái cổ áo (lãnh) vì vậy người nắm giữ một nhóm người thì gọi là “lãnh tụ” ,từ đó, lãnh dùng để chỉ nhiệm vụ điều hành, đề xuất - nay gọi là lãnh đạo - là việc đề ra chủ trương, đường lối (đạo) và tổ chức, động viên thực hiện. Hoạt động quản lý (lãnh đạo) thể hiện qua các công đoạn mang tính chức năng (hoạch định thực hiện kiểu ta), thiếu một công đoạn nào thì chu kì quản lý sẽ bất thành - vì vậy, nói không kiểm tra cũng như không lãnh đạo nếu dùng hoạch định hoặc thực hiểm thay cho kiểm tra thì nghĩa câu này vãn đúng. Việc “quản bản thân - tu thân, quản một gia đình - tề gia, quản một đất nước - trị quốc” đều thực hiện ba công đoạn “trị - hành - kiểm”. Vì vậy, “tu”, “tề”, “trị” thực chất là những chuỗi hoạt động quản lý - đối tượng quản lý có khác nhau nhưng các công đoạn quản lý là không đổi.
Việc quản lý bản thân, gia đình, đất nước có quan hệkế thừa và tương tác một cách đặc biệt. Muốn thành công trong việc trị quốc thì trước hết phải biết tề gia, muốn tề gia thì phải tu thâm, muốn tu thân phải chính tâm, muốn chính tâm phải thành ý, muốn thành ý thì phải có thực học (cách vật trí tri), một quá trình khổ luyện.
Mỗi công đoạn quản lý vừa nhập vào hoạt động quản lý vừa chi phối chính nó, nhấn mạnh yêu cầu “quản” người ta dùng “quản lý” nói mục đích thì dùng “quản trị”. Mỗi nội dung quản lý có bao nhiêu nhiệm vụ là tuỳ vào sự phân cấp, phân quyền và tầm tư duy của người quản lý nhưng mỗi việc đều phải “hành - thi hành” với yêu cầu “chính - ngay, đúng, trọn, trực - thẳng”. Đã “hành” thì phải “chính”, do đó, “trong khi” và “sau khi” hoạt động, người ta dùng chuẩn để đánh giá quá trình thực hiện công việc - khâu lập chuẩn phải phụ thuộc vào cái “lý” đã chọn ban đầu. Tiếng Hán có hai chữ chính (chánh)không ra đời cùng lúc, chữ trước có nghĩa là “ngay thẳng, khuôn phép, chính đáng, phải, ở giữa”, từ đó tạo ra chữ chuẩn thứ hai với các nghĩa làm cho ngay thẳng, việc quan việc nhà nước,cai trị. Khi Qúy Khương Tử hỏi Khổng Tử về vai trò của “chính” khi “trị nước”, Khổng Tử đáp: “Chữ chính (cai trị ) là do noi chữ chính (ngay thẳng) mà ra, bởi vậy, trị dân là làm cho dân trở nênngay thẳng" - đây được coi là một trong những cách ngôn hay nhất về việc cai trị, điều cần làm cho ngay thẳng trướchết là cái tâm (chính tâm). Trong hệ quản lý, hơn ai hết, chủ thể phải đạt chính tâm, nếu khôngthì khó đạt đến các nhân tố khác (chính trí, chính thuyết, chính trị...), sinh ra bất an (loạn) cho bản thân và cho cả hệ thống - thượng bất chính hạ tắc loạn (thượng - cấp trên chủ thể quản lý).
Từ nguyên của nhóm thuật ngữ liên quan đến lý, trí, quyền...không là vấn đề riêng quốc gia nào. Người Hy Lạp coi “logos" (lý) là quy luật khách quan -nguyên nhân tồn tại và phát triển của vũ trụ
R | I | G | H | T |
Reason | Idea | ground | High | truth |
"Reason: lý lẽ, lẽ phải, lý do, động từ (to reason: lý luận). R ở từ “rig” còn có nghĩa “sắp xếp cho có trật tự” (quản trị).
Idea: mẫu mực lý tưởng (
Ground: cơ sở (to prepare the ground for… chuẩn bịcơ sở cho...), nền tảng, lý lẽ, hạ cánh, sự tiếp đất - gắn thực tiễn, căn cứ vào (ground on), đặc biệt, số nhiều(grounds) không là nhiều lý lẽ mà lại là cặn bã, nghĩa động từ (to ground) là mài giũa.
High: tối cao, cao qúy, mạnh mẽ, dũng cảm
Truth: sự thật, chân lý, sự đúng đắn.
“G” của “right” còn ở “growth” - tăng trưởng, phát triển, “great - vĩ đại, cao thượng” - mục đích, yêu cầu của hoạt động quản lý (làm cho dân trở nênngay thẳng). Với từ “law” (luật, phép tắc, quy luật, định luật điều lệ) cũng vậy:
L | A | W |
logo | action | wide |
Với “action - hành động, bộ máy”, “wide - rộng, lớn, uyên bác, vũ trụ bao la (the wide)”.
Quả thật, cái lý (logos) được coi là chân lý thì không bao giờ là những lý luận suông mà phải được thể hiện hành động (action) thông qua bộ máy (nhân sự, thiết bị) và được thực thi trên phạm vi rộng lớn. Nhà quản trị không chỉ thạo động tác “phất cờ chỉ huy”, mà còn cần tài năng và cả nghệ thuật sử dụng cái lý (tâm lý, pháp lý, thiên lý...) để đưa đối tượng quản lý
Với quan niệm thiên địa nhân hợp nhất - cá thể thống nhất với môi trường - công chức sẽ chấp pháp với niềm tin vững vàng về sự thống nhất biện chứng giữa pháp lý công vụ với lý tưởng trị nước vàthiên lý. Coi công vụ không chỉ là việc nước (theo công lý) mà còn là thực thi thiên lý để đưa dân vào đường ngay (chính đạo), nẻo sáng (minh đạo), khi tư tưởng thay đổi (thế thiên) hành đạo trở thành lẽ sống thì công chức sẽ thực thi công vụ một cách công minh liêm chính, những công chức thanh liêm luôn sống và làm việc với tinh thần đó.
Khổng Tử coi chính trị, không chỉ là việc Nhà nước, khi được hỏi sao ngài không ra làm quan, làm việc chính trị? (bất vi chính), Khổng Tử đáp: hiếu với cha mẹ, thuận với anh em là thi hành chính trị nơi nhà mình, là làm việc chính trị, đợi chi đến làm quan mới làm việc chính trị - Luận Ngữ. Tư tưởng chính thể hiệnở hành vi làm ra làm, việc gì cũng làm đúng tên (danh), đúng bản chất (thực) để duy trì đúng việc (what), đúng người (who), đúng lúc (when), đúng chỗ (where), đúng mục tiêu và cách thức (how)... vì vậy, thực chất của quản lý là hoạt động nhằm mang lại sự “chính danh" cho hệ thống được quản lý. Do đó, “hành”
Để trị - đưa đối tượng quản lý đến trạng thái “trị”- phải “hành” theo “chính”, “bất chính” thì “tà - lệch”. “Quản”, “hành” mà “bất chính" thì không đạt “trị” mà sẽ gây ra “loạn”. Ngày trước, trẻ được rèn thói quen làm (hành)
Hoạt động | Mục đích - Kết quả | |
Cai trị | Làm cho dân ngay thẳng | Trạng thái “trị” |
Quản | Duy trì ổn định và phát triển của đối tượng quản lý |
Quản lý hành chính là làm
Hoạt động | Yêu cầu | Mục đích - Kết quả |
Quản | Lý | Trị (ổn định) |
Hành | Chính |
Nói quản lý hành chính có tính chất pháp lý còn vì yêu cầu của quản lý là“quản”
Vì vậy, quản lý hành chính là chuỗi hoạt động để đưa đối tượng đến trạng thái mới
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng CSVN nhận định: “Thực trạng kinh tế - xã hội ở nước ta còn 5 mặt yếu kém chủ yếu, nguyên nhân chính là do yếu kém về quản lý và coi quản lý là khâu đột phá” xác định đẩy mạnh cải cách hành chính và xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh là giải pháp đặc biệt để khắc phục yếu kém đó, coi đổi mới các công đoạn quản lý (hoạch định, thực hiện, kiểm tra, tổng kết) là giải pháp đột phá để thực hiện thành công. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Con người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần Bạt