Những thách đố của tính phức hợp
Tính phức hợp là một vấn đề, một bài toán, đó là một thách đố chứ không phải là lời giải đáp. Thế nhưng tính phức hợp là gì? Thoáng nhìn, đó là cái không giản đơn.
Ý tưởng đầu tiên này chúng ta sẽ đem sử dụng như sợi chỉ Arianel. Bởi vì lý tưởng của tri thức khoa học đến tận đầu thế kỷ XX, ngay cả ở nhiều trí tuệkhoa học đến ngay bây giờ nữa, vẫn là làm sao để từ phía sau cái ngoại hình rối ren lộn xộn của bao hiện tượng vạch rõ những quy luật giản đơn chi phối các hiện tượng ấy, tức là thứ trật tự thuần túy quyết định chúng, và do vậy trước đây vẫn tìm cách xác lập các chân lý đơn giản bằng 4 phương tiện lớn.
Phương tiện thứ nhất là nguyên tắc trật tự (prineipe d'ordre). Tại sao tôi nói "trật tự" mà không nói "quyết định luận"? Vì lẽ ý tưởng trật tự bao hàm ý tưởng quyết định luận, nó rộng lớn hơn, nó chứa đựng mọi thứ ổn định, mọi thứ không đổi, mọi thứ đều đặn, mọi thứ tuần hoàn
Phương tiện thứ hai là nguyên tắc phân cách (principe de séparation) được xác lập rất chặt chẽ ở
Phương tiện thứ ba là nguyên tắc quy giản (principe de réđuction),
Nguyên tắc cuối cùng coi logic học cổ điển như một cách xác định giá trị tuyệt đối, thứ logic mà ta có thể gọi là diễn dịch - quy nạp - đồng nhất" ("logique déductive - inductive-identitaire") gán cho phép quy nạp một giá trị chân lý gần như tuyệt đối, gán cho phép diễn dịch là giá trị chân lý tuyệt đối, và tất nhiên như vậy thì ắt phải loại bỏ mọi mâu thuẫn. Sự xuất hiện mâu thuẫn trong suy lý là dấu hiệu của sai lầm nên bắt buộc phải bỏ cái suy lý ấy đi. Xin lưu ý rằng nguyên tắc nhân quả tuyến tính (principe de causahté linéaire) ngự trị tại nhãn quan này.
Như vậy là sự thách đố của tính phức hợp phát sinh từ sự thật khi mỗi nguyên tắc trên đây bị lung lay, có khi bị đặt thành vấn đề tồn tại, trong diễn trình các phát triển khoa học đa dạng của thế kỷ XX, thế mà vẫn chưa hề có việc suy nghĩ tường tận về tính tất yếu phải có một cuộc cải cách đích thực đối với tư duy. Tôi nghĩ rằng, với tư thế rất kiên định ông Lecourt đã chứng tỏ rằng ngay từ giữa thế kỷ XIX, môn nhiệt động lực học đã chỉ rõ một điều bê bối đối với trật tự hoàn hảo của vật lý học cổ điển, bởi vì môn này mang lại không chỉ một ý tưởng về sự "không thể đảo ngược" đối với các phương trình thuận nghịch của thứ vật lý học đó, mà còn đưa lại cả ý tưởng về suy thoái (xuống cấp) trong cái trật tự "kỳ diệu đó. Đây là hiện tượng suy thoái của năng lượng gắn liền với nhiệt, thứ nhiệt mà
Nguyên tắc này đã khiến cho người ta phải ngẫm nghĩ rất nhiều trong thời gian ấy. Lúc đó người ta tự hỏi rằng, phải chăng thế giới
Thế rồi cả đến vũ trụ nữa cũng tiến
Các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt của Edgar Morin: - Trái đất – Tổ quốc chung, NXB Khoa học xã hội, 2002. |
Nguyên tắc thứ hai, tức là nguyên tắc phân cách, thì dường như trước đây đã vận hành rất cứng rắn, chặt chẽ, nhưng sau cùng đến thế kỷ XX lạitái xuất hiện một ý tưởng đã từng được phát biểu dưới hàng nghìn dạng: "Cái toàn thể là nhiều hơn, lớn hơn tổng cộng các bộ phận của nó". Nói thế tức là bảo rằng cái toàn thể có một số chất lượng và đặc tính không thấy có ở những bộ phận khi chúng còn bị phân cách nhau. Ý tưởng này chứa đựng khái niệm về sự trỗi dậy (sự hợp trội - émergence), đó là sự trỗi dậy của những chất lượng và đặc tính riêng của sự tổ chức khối - toàn thể. Thí dụ như sự sống là cấp, thành từ những nguyên tố triệt để mang tính chất lý - hóa và không khác chút nào về thể chất và vật chất so với toàn thể thế giới lý - hóa. Sở dĩ có khác biệt chính là do tổ chức của nó, do cách thức mà các phân tử và các "phân tử vĩ mô" cấu tạo nó đã được tổ chức lại và chính cái tổ chức này có những chất lượng trỗi lên (sinh sản, chuyển động, tự - tổ chức có khả năng xử lý các thành phần của bản thân và xử lý môi trường mà nó sinh sống). Thật ra thì ngay trước đó ở H2O, Sự gặp gỡ của hai nguyên tử khinh khí và một nguyên tử dưỡng khí ở trạng thái khí, đã dẫn tới việc xuất hiện một chất lỏng là nước với các đặc tính khác hẳn đặc tính các bộ phận cấu thành nó. Thế cho nên, biết các bộ phận cấu thành chưa đủ để biết toàn thể. Và xin lưu ý rằng, tri thức về cái toàn thể không thể tách rời với tri thức về các bộ phận của nó. Chính bởi các lẽ đó mà tôi luôn dẫn câu nói sau đây của Pascal, chắc hết thảy các vị đều thuộc lòng: "Tri thức về khối toàn thể cần đến tri thức về các bộ phận, và các tri thức bộ phận đều cần đến tri thức về khối toàn thể". Thành ra khi chúng ta đã có ý tưởng đó ắt chúng ta cũng có ý tưởng về tổ chức. Quan điểm hệ thống dẫn đến ý tưởng về tổ chức, nó sản sinh các hiện tượng hợp trội và thêm nữa do những ràng buộc mà nó áp đặt bị ức chế một vài đặc tính đã tồn tại ở cấp độ bộ phận mà từ đó sẽ thật sự không biểu hiện được nữa.
Gần như cùng lúc, thế kỷ XX chứng kiến hai cuộc cách mạng khoa học. Cuộc thứ nhất nảy sinh từ sự bung ra của quan điểm vô trật tự, chủ yếu với môn vật lý học lượng tử, và đã dẫn đến việc tất yếu phải xử lý về vô trật tự và hòa giải với tình thế bất định. Cuộc cách mạng thứ nhất này đã mang lại nhiều hệ quả tri thức luận rất xác định, vì chính từ đó mà các nhà khoa học Bachelard và Popper đã suy ngẫm về khoa học và rút khỏi khoa học một trong những tính chất mà trước kia người ta đã "hồn nhiên" ngộ nhận rằng đó là "đồng thể" với khoa học, là tính chất "tất định tuyệt đối". Trước đây, Whitehead từng nói "không", chính môn thầnhọc mới là chắc chắn, là tất định, cố nhiên đối với người tin vào thần học. Còn khoa học thì xây dựng trên các dữ liệu chắc chắn mà tính tất định này lại định vị trong thời gian và không gian, ví như tốc độ quay của Trái đất quanh Mặt trời thì quả là một dữ liệu chắc chắn, song nó không phải là sẽ tất định như vậy trong trăm triệu năm nữa, và trước đây một trăm triệu năm cũng đã không tất định rồi. Vậy các dữ liệu chỉ là chắc chắn trong những điều kiện không gian - thời gian hạn định. Thế nhưng lý thuyết thì không tất định. Các lý thuyết khoa học luôn luôn có thể bị bác bỏ trước sự xuất hiện các dữ liệu mới hay cách thức mới để xem xét các dữ liệu. Và thế là một công việc suy tư rất nhiều hiệu quả tốt đẹp về tính khoa học, về các tiền đề, về các giả thuyết ban đầu, rất cuộc đã nảy nở từ cuộc rung chuyển khoa học ấy hồi đầu thế kỷ XX mà đến bây giờ vẫn còn chưa kết thúc.
Cuộc cách mạng khoa học thứ hai diễn ra trong nửa sau thế kỷ XX, với sự trỗi dậy của những khoa học tiến hành các hoạt động tập hợp đa - bộ môn, như vũ trụ học, các khoa học Trái Đất, sinh thái học, khoa học mới về thời tiền sử. Nhưng cuộc cách mạng này đến nay vẫn chưa phát động được một trào lưu vận động tri thức luận quan trọng và sâu xa ngang với cuộc vận động mà cách mạng khoa học thứ nhất đã kích thích.
Chúng ta bây giờ vẫn chỉ là một số người, rất nhỏ nhoi mang chủ trương gắng sức rút ra những hệ quả từ hai quá trình đảo lộn trên đây, cả hai cuộc đã tạo nên sự xuất hiện của hai ý nghĩa của tính phức hợp. Vậy chúng ta hiểu về thuật ngữ "tính phức hợp" này thế nào? Trong nghĩa thứ nhất, chữ "complexus" là "những gì được liên kết lại với nhau, đan dệt cùng nhau”. Và đó chính là tấm dệt mà ta phải hình dung thấu triệt. Nhưng tới lúc nhìn vào vô số tương tác giữa những tế bào trong cơ thể con người, rồi giữa những phân tử trong nội bộ các tế bào, thì hiển nhiên ta thấy không có bất cứ sự chắc chắn nào diễn ra cục bộ ở bất cứ điểm này điểm khác trong đó. Vậy thì do một thực tế là số lượng các tương tác và tác động ngược nằm ngay trong tính phức hợp, với những tương tác ngược gọi là "âm" (nghĩa là điều chỉnh, điều tiết), với những tác động gọi là "dương" (nghĩa là thúc đẩy việc diễn biến chệch hướng để có thể dẫn tới những biến dạng hoặc bùng nổ) cho nên chính là tính phức hợp cũng mang lại tình trạng không chắc chắn. Bởi lẽ tính phức hợp thừa nhận rằng ở mọi sự vật đều có một phần là vô trật tự, ngẫu nhiên, nên nó thừa nhận một bộ phận tất yếu của tính không chắc chắn trong tri thức. Đây chính là chỗ cáo
Nguyên tắc phân cách không chết, nhưng nó không đầy đủ. Phải phân cách, tách biệt, song cũng phải liên kết và tập hợp lại nữa. Nguyên tắc trật tự cũng không chết, nhưng phải đưa nó hội nhập trong đối thoại trật tự - vô trật tự - tổ chức. Còn nguyên tắc quy giản thì quả là chết thật rồi, bởi vì chẳng bao giờ ta thu nhận được tri thức về cái toàn bộ dựa vào điểm xuất phát là tri thức về các thành phần cơ bản. Nguyên tắc của logic học diễn địch - đồng nhất không còn là tuyệt đối nữa, cần biết cách cải biến nó.
Việc cải biến này đã tiến hành ở môn vật lý học vi mô. Việc suy lý khoa học dựa trên sự phù hợp giữa tính duy lý với các dữ liệu của quan trắc và kinh nghiệm đã mở được một đột phá khẩu đầu tiên với nghịch lý sau đây: phần tử vi mô trong một số tình huống thực nghiệm là ứng xử như một hạt cơ bản, mộtvật thể phân lập được, và trong những trường hợp khác lại ứng xử một cách liên tục như sóng. Mâu thuẫn nằm giữa hai khái niệm này là tuyệt đối tương phản nhau.
Các vị đã biết trước đây người ta muốn loại bỏ nghịch lý này bằng cách mệnh danh hạt cơ bản là "quanton". Song tiếp đó, lại tái xuất hiện các nghịch lý logic nảy sinh cùng với những suy tư mới và các bước phát triển mới để mở rộng môn vật lý học lượng tử. Ngay từ trước
Phần khác nữa, hình ảnh của mâu thuẫn cũng đã xuất hiện tại lĩnh vực cao nhất của tư duy toán học với định lý Godel rằng trong một hệ thống hình thức hóa phức hợp bao hàm môn số học, luôn luôn có một mệnh đề không thể xác định được, thậm chí cả tính phi mâu thuẫn của hệ ấy cũng không thể xác định được. Từlâu rồi, người ta đã nhận ra trên bình diện diễn dịch của phép tam đoạn luận có một mâu thuẫn thể hiện trong ý kiến của một người đảo Crète nhận xét rằng hết thảy mọi người dân ở Crète đều là nói dối cả: nếu người ấy nói thật tức là y đã dối rồi, còn nếu y nói dối thì tức là nói đúng sự thật. Thành thử, ta cần nhận rõ quyền năng của môn logic học là không tuyệt đối, muốn tư duy ta phải có đủ năng lực để cải thốn nó rồi trở lại đó với những kiểm chứng cục bộ, tương tự như vậy, chớ nên tự biến mình thành một tử tù đưa cổ mình vào một cái tròng sắt để treo lên giá tử hình, đó tức là tự giam hãm vào nguyên tắc "bác bỏ cái thứ ba" (principe du "tiers exclu” - nguyên tắc bài trung). Logic học phải được đưa vào việc phục vụ cho tư duy, chứ không thể bắt tư duy phục vụ logic học, nếu không tư duy sẽ hóa ra nói lảm nhảm vô bổ, tức là rỗng tuếch. Thế là các vị đã thấy rõ những trụ cột cơ bản của các tính chất đơn giản, trật tự, quy giản phân cách, nhất quán hình thức của logic học đều bị lung lay cả rồi.
Trên đây là những thách đố của tính phức hợp, nhưng xin lưu ý rằng chúng ta đều gặp lại những thách đố ấy ở khắp nơi. Nếu ta muốn có một tri thức cục bộ, khép chặt lên một khách thể, chỉ nhằm một cứu cánh độc nhất là thao tác vận dụng khách thể ấy thì ta có thể loại trừ mọi quan tâm về liên kết, bối cảnh hóa, tổng hợp hóa. Nhưng nếu ta muốn có một tri thức xác thực toàn diện, chúng ta rất cần liên kết, bối cảnh hóa, tổng hợp hóa các thông tin và hiểu biết của ta, tức là cần tìm tòi một tri thức phức hợp. Rất hiển nhiên là phương thức tư duy cổ điển, với các quy tắc ngăn cách manh mún của nó, khiến cho việc bối cảnh hóa các tri thức không thể thực hiện được. Nó đã biến các chuyên gia thành những "chàng ngốc" về văn hóa, những người dốt nát chẳng hay biết chút gì về những việc đụng chạm tới các vấn đề toàn cầu và tổng hợp, tuy thật sự là rất cụ thể, chẳng hạn cuộc chiến ở Nam Tư và tuyển cử ở Israel. Và cũng đáng sửng sất, cái thế giới siêu - chuyên môn hóa này tự áp đặt lên bản thân nó ý tưởng cho rằng phải tránh hết mọi tư tưởng chung vì chúng đều rỗng không, trong khi đó thì nó cứ nuôi dưỡng bằng những tư tưởng chung rỗng không về thế giới, sự sống, nhân loại, xã hội và nuôi dưỡng cái rỗng không hơn hết trong các tư tưởng chung, đó là: không được có những tư tưởng chung.
Ngày nay, không còn nữa một học giả uyên bác như Pic de La Mirandolel. Bây giờ ta không thể lĩnh hội vào tâm trí toàn bộ khối lượng hiểu biết hiện tại, nhưng Pic đã làm được việc đó ở thời đại ông. Không nghi ngờ gì nữa, ông phải nhìn rõ hơn về việc này. Ông Pico Delia Mirandola, đó chính là một nhân vật danh tiếng thời Phục Hưng. Ông có khối óc hiếu kỳ về tất cả, biết tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, học được tiếng Arập và nắm vững được tư tưởng của Averroès. Ông đã học tiếng Do Thái Hébreu, nghiên cứu về Kabbale và nhất là đã vận dụng các nguyên tắc về tổ chức tri thức giống như phát biểu của ông
Ngày nay ta có thể nói: chúng ta là những đứa con đẻ từ vũ trụ, chúng ta mang trong bản thân thế giới vật lý, thế giới sinh học, nhưng mang chúng trong và cùng với tính đơn nhất riêng biệt của chúng ta. Nói cách khác, những nguyên tắc tổ chức tri thức là rất cần thiết cho việc đối mặt với thách đố của tính phức hợp.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường