Khánh thành bia tri ân Alexandre de Rhodes tại Isfahan (Iran)
Đọc thêm:
.
Bia tri ân đã được chính thức khánh thành long trọng và trang nghiêm tại mộ phần cha Alexandre de Rhodes sáng hôm 5/11/2018, nhân ngày giổ thứ 358 năm của ông tại thành phố Isfahan (Iran).
.
Đoàn Việt Nam bên mộ Alexandre de Rhodes. Ảnh: Nguyễn Văn Tâm
.
Buổi lễ đã có sự tham dự của chinh quyền thành phố (ông Mazaheri, cộng đồng Hồi giáo tại Isfahan), cộng đồng chủ quản (ông Gestabian, cộng đồng cơ đốc giáo Armenian tại Isfahan), nhà thờ VANK (Bà Gukasian, trưởng phòng quan hệ dân chúng)và 20 công dân Việt Nam đến từ ba miền đất nước, có cả người Việt định cư ở nước ngoài !
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc ngữ và Bảo Tồn tiếng Việt (ĐH Duy Tân), TS Nguyễn Thị Hậu, nhà văn Hoàng Minh Tường đến từ Việt Nam đã phát biểu tri ân sâu sắc sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối với văn hóa Việt Nam.
Theo dự định, tại đây sẽ xây dựng không gian Tri ân và Tưởng niệm tiếng Việt và Chữ Quốc Ngữ. Không gian này sẽ được phát động thiết kế, huy động vốn thực hiện từ năm 2019.
Bài phát biểu của GS Nguyễn Đăng Hưng:
Kính thưa các vị khách quý,
Thưa các bạn
Vẫn biết lúc ban đầu các giáo sỹ cơ đốc chỉ muốn tạo dựng một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo, nhưng tính cách nghiêm túc và khoa học của công trình của họ đã cho ra đời một sản phẩm văn hóa tuyệt vời giúp cho người Việt có cơ hội nhanh chóng hòa nhập với thế giới văn minh, giúp các trẻ em Việt Nam có thể nhanh chóng biết đọc và biết viết, thoát ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ Trung Hoa.
.
Ảnh: Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng
.
Các chí sỹ yêu nước của các phong trào canh tân đất nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… đã sớm ý thức được lợi thế này và đã chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện truyền bá những tư tưởng dân chủ tiến bộ, mưu cầu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.
Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, các cộng tác viên người Việt,các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn Can, Nguyễn Quyền,Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ:Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang.... Họ đã là những nhân tố tích cực cho việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam
Nhưng công đầu có lẽ thuộc về cha Alexandre de Rhodes.
Di ảnh của cụ Alexandre de Rhodes
Vùng đất Esfahan, Iran nơi ngài Alexandre de Rhodes an nghỉ. Ảnh Google map
.
Năm 1651 sau khi bổ sung và hoàn thiện các công trình tiếng Việt khởi đầu từ các công trình của các giáo sỹ Bồ Đào Nha (Francisco De Pina , Gaspar De Amaral, Antonio Barbosa) ngài cho ra đời tại Roma, quyển tự điển Từ điển Việt–Bồ–La(Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum), công bố khoa học đầu tiên về Tiếng Việt và cách viết dùng ký tự La Tinh.
Đây là cả một nỗ lực, khổ luyện cá nhân hiếm có. Cha ADR đã ghi lại:
Khi tôi vừa đến đàng trong VN và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghechimhót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được mộtngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai chaEmmanuel Fernandez vàBuzomi, khi giảng, phải có ngườithông dịch lại. Chỉ có chaFrancois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học mônthần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. ..
Cha ADR đã góp phần to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn minh trước hơn 350 năm so với các nước khác tại Á Châu!
Đây cũng là thành quả giao lưu văn hóa Âu-Á trong sáng và trường tồn vào bậc nhất của nhân loại. Có công trình giao lưu văn hóa nào ngay thế kỷ 17 mà đã có hợp tác của đông đảo các quốc tịch: Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam... đế sáng tạo, hình thành và đạt kết quả mỹ mãn như tiếng Quốc Ngữ mà ta có ngày nay?
Hôm nay, chúng tôi, những phó thường dân từ Việt Nam xa xôi,là hướng dẫn viên du lịch, là chuyên gia nhiếp ảnh, là nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giáo sư đại học, đến từ Nam, Trung, Bắc, có người định cư ở nước ngoài hồi hương,chúng tôi vượt không gian trên 6000 km tụ tập về đây, nhân ngày giỗ thứ 358 của ngài.
Chúng tôi kính cẩn đặt bia tri ân, với tư cách là người Việt Nam, nói tiếng Việt và sử dụng mỗi ngày Chữ Quốc Ngữ.
Chúng tôi ghi rõ lòng biết ơn của chúng tôi lên bia đá:
“Tri ân Cha Alexandre de Rhodes đã đóng góp to lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ - chữ Việt viết theoký tự Latinh” (We are very grateful to Father Alexandre de Rhodes who contributed greatly to the creation of Chữ Quốc Ngữ, Vietnamese script using the Latin alphabet).
Chúng tôi cũng mang sang đây một tấm bia ngắn, cho khắc in chân dung ngài và hình ảnh cuốn từ điển trứ danh của ngài.
Chúng tôi tin tưởng rằng từ nay,tấm bia đá lấy từ Quảng Nam này, nơi ngài lần dầu đặt chân đến học tiếng Việt, sẽ mãi mãi đứng dưới chân ngài, đem đến cho ngài hơi ấm của lòng biết ơn sâu sắc của người Việt chúng tôi!
Thật vậy, Chữ Quốc Ngữ đã quyện cùng tiếng Việt, thấm vào hồn người Việt và chúng tôi tin tưởng không gì có thể laychuyển được được là Vinh danh Chữ Quốc Ngữ chính là bảo tồn tiếng Việt, chính là bảo vệ đất nước Việt Nam!
Xin cám ơn quý vị!
Bài phát biểu của Nhà văn Hoàng Minh Tường:
Thưa Cha Alexandre des Rhodes, người Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên những người tạo lập công đức và kiến tạo văn hóa, những Hai Bà Trưng, Ngô Quyền , Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... Và cả Ngài nữa. Ngài đã trở thành một người Việt viết hoa. Ngài đã tạo dựng Công đức, kiến lập Văn hóa với nước Việt.
Thưa Cha.
Ở Việt Nam có một đường phố mang tên Ngài, đường Alexandre des Rhodes, ở trung tâm Sài Gòn, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Trước đó cả thế kỷ, ở trung tâm Hà Nội, thủ đô của nước Việt, có một tấm bia vinh danh Ngài bên Hồ Gươm, tiếc rằng, do giặc giã, đã bị thất lạc.
Điều đó nói rằng, hơn ba trăm năm qua, người Việt Nam không quên Ngài, vẫn luôn nhớ Ngài như thuở Ngài sống và cùng các giáo sĩ Borri, Emmaanuel Fernades, Buzomi, Francois de Pina…cùng các con chiên người Việt, đặc biệt là quan tuần phủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa, người đã cưu mang các ngài trong những ngày đầu ở cư sở Nước Mặn, góp phần sáng tạo nên chữ Quốc ngữ.
Và sự hiện diện của chúng tôi hôm nay, một nhóm người Việt nặng lòng với tiếng Việt, chữ Việt, tại nơi yên nghỉ của Ngài, cố đô Isfahan của xứ sở Ba Tư huyền thoại, đúng ngày giỗ lần thứ 358 của Ngài ( 5/11/1660 – 5/11/2018), nói rằng Ngài vẫn luôn sống trong tâm tưởng mọi thế hệ người Việt.
Có muộn quá không, đã 372 năm kể từ ngày Ngài xa nước Việt, nơi mà Ngài đã gắn bó suốt 20 năm, từ 1625 đến 1645, đã luồn rừng lội suối, cùng ăn cùng ở với người dân, nói thứ ngôn ngữ thuần Việt với con chiên, với Chúa, để rồi kết tinh nên bộ sách khai sáng Dictionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum ( Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, gọi tắt là từ điển Việt - Bồ - La), in tại Roma, 1651.
Không quên, cũng có thể hiểu là không muộn, và có thể được thể tất, được xá lỗi, thưa Cha.
Nhà văn Hoàng Minh Tường và các nhân sĩ VN trước mộ cha des Rhodes
Là một người gắn với nghiệp cầm bút, với tiếng mẹ đẻ, chúng tôi luôn coi Ngài và các cha Francois de Pina, Buzomi, Borri, Emmanuel Fernandes như những người Thầy khai sáng. Tôi nghĩ, rồi đến một lúc, các thế hệ hậu sinh nước Việt sẽ rước Ngài vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Thánh đường của đạo học Việt Nam để phối thờ cùng các đại sư biểu kiến tạo và mở mang văn hóa, giáo dục... Người Việt chúng tôi từng có câu tục ngữ : Uống nước nhớ nguồn, chắc ngài đã biết từ ngày ở giáo đường Thanh Chiêm, xứ Quảng? Và nên chăng, các con dân Việt Nam nên đề nghị Nhà nước chọn ngày 5 tháng 11 hàng năm là ngày Vinh danh chữ Quốc ngữ và giữ gìn, phát triển sự trong sáng của Tiếng Việt ?
Nói vậy để thấy rằng, kể từ khi bộ Từ điển Việt - Bồ - La ra đời, và đặc biệt từ tháng 12 năm 1918, khi triều đình nhà Nguyễn chính thức quy định dạy chữ Quốc ngữ trong các trường học cả nước, thì không chỉ giáo dục, báo chí, văn hóa, mà tất các các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đời sống của nước Việt đã đột biến phát triển lên một bước mới. Trong những thành tựu vượt trội, phải kể đến văn chương Quốc ngữ. Cùng với sự nở rộ của báo chí, bắt đầu từ Gia Định báo ra đời năm 1865 ở Sài Gòn, cùng với phong trào Truyền bá Quốc ngữ, phong trào Đông Kinh Nghĩa thục…, một dòng văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ đã gợi mở và đặt nền móng cho những trào lưu văn học Tự lực Văn đoàn, Thơ Mới sau này. Và tiếp theo là dòng văn học Hiện thực và văn học Hiện đại hôm nay… Nói không ngoa, một trăm năm qua là cuộc đại hợp thành của nền văn học hiện đại Việt Nam, là cuộc vật vã khai mở vào ngôn ngữ tiếng Việt của những phu chữ ( theo cách nói của nhà thơ Lê Đạt), để khởi sinh và phát triển một dòng văn học chữ Việt, ào ạt tuôn chảy, nhanh chóng chiếm lĩnh những đỉnh cao và sự toàn bích, đưa ngôn ngữ Việt, văn hóa Việt trở thành vi diệu , có khả năng giao hòa, khuếch tán vào nhân loại…
Xưa nay kẻ sĩ thường không thích nói về mình. Hẳn Ngài cũng như Đại thi hào Nguyễn Du, những người làm ra sản phẩm tinh thần, thường luôn nghĩ mình mong manh, luôn mặc cảm sợ người đời không hiểu mình, dễ lãng quên mình. “ Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"( Không biết rằng ba trăm sau, Có ai là người khóc Tố Như (ta) không?)
Thưa Cha Alexandre des Rhodes, người Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên những người tạo lập công đức và kiến tạo văn hóa, những Hai Bà Trưng, Ngô Quyền , Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... Và cả Ngài nữa. Ngài đã trở thành một người Việt viết hoa. Ngài đã tạo dựng Công đức, kiến lập Văn hóa với nước Việt.
Và hôm nay, tại đây, chúng tôi xin kính cẩn thắp hương, đặt bia tưởng niệm Ngài, xin tri ân với bạn bè tại thành phố Isfahan mến khách và tươi đẹp, nơi ngài an nghỉ đời đời, đã giành cho chúng tôi một chốn hành hương, như về với cội nguồn.
Bài phát biểu của Tiến sĩ Khảo cổ Nguyễn Thị Hậu:
Từ thế kỷ XIII người Việt dựa trên chữ Nho để ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.
Từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây bắt đầu đến truyền giáo tại nước ta. Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà còn dùng kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt và viết kinh sách bằng tiếng Việt. Từ nhu cầu đó nhiều giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm nầy để viết sách giáo lý bằng tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này.
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản... chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt có sự phân biệt. Từ sau 1945 có thể nói, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn.
Chữ quốc ngữ là một thành tựu văn hóa lớn, có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật...). Vì vậy, từ buổi lễ trang trọng hôm nay tại đây, chúng ta hy vọng rằng ngoài việc tôn vinh những ngươi có công lao sáng tạo và hoàn thiện chữ quốc ngữ - tiêu biểu là Ngài Alexandre de Rhodes - chúng ta sẽ đánh giá đúng vai trò của những nhà văn hóa Việt Nam, giá trị những địa điểm ghi lại dấu ấn hình thành và phát triển chữ quốc ngữ tại nước ta vì đó là xứng đáng trở thành di tích lịch sử - văn hóa của đất nước.
Trân trọng cám ơn giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa này. Chân thành cám ơn các vị khách quý đã tham dự buổi lễ. Xin cám ơn tất cả anh chị em trong đoàn!
Chúc tất cả quý vị sức khỏe và thành công!
Đến Ba Tư viếng Cha Đắc Lộ
(Người Đô Thị, TS. Nguyễn Thị Hậu)
Chuyến đi này đoàn chúng tôi gồm 20 thành viên đến từ ba miền Trung Nam Bắc, có cả người định cư ở nước ngoài, làm nhiều ngành nghề khác nhau nhưng có cùng mục đích: viếng mộ ngài Alexandre de Rhodes và khánh thành bia tri ân người có công lao đặc biệt trong việc hình thành chữ quốc ngữ. GS. Nguyễn Đăng Hưng là người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa có ý nghĩa đặc biệt này.
Trên chuyến bay dài hơn mười tiếng của hãng Hàng không Thổ Nhĩ Kỳ, tôi tranh thủ xem lại lịch sử hình thành chữ quốc ngữ và vai trò của “Cha Đắc Lộ” (1591 - 1660): “Alexandre de Rhodes (phiên âm Hán Việt là A Lịch Sơn Đắc Lộ) sinh ngày 15.3.1591, là một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học người Avignon (Pháp). Ông đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam và việc hình thành chữ quốc ngữ.
Tác phẩm ông biên soạn, Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt-Bồ-La), xuất bản tại Rôma năm 1651 đã hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Ông qua đời ngày 5.11.1660 tại thành phố Isfahan, Iran, sau 15 năm chính thức bị trục xuất khỏi Việt Nam”.
Tác giả giữa một phế tích xứ Ba Tư. Ảnh: TLTG
Sau 5 giờ chờ đợi quá cảnh tại sân bay Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) rộng lớn và hiện đại, chúng tôi tiếp tục chuyến bay sang Tehran. Thủ đô Cộng hòa Hồi giáo Iran đón chúng tôi bằng thời tiết se lạnh trong buổi chiều nắng rực rỡ. Chiếc xe buýt rất đẹp và tiện nghi đưa chúng tôi đi xuyên qua thành phố. Trên đường đi ngoài sự ngỡ ngàng vì cảnh quan sạch đẹp, bình yên, Tehran còn làm tôi ngạc nhiên vì những kiến trúc hiện đại hòa hợp với nghệ thuật Hồi giáo truyền thống. Tiêu biểu là công trình tháp Azadi (Tháp Tự do) - tượng đài tại quảng trường Azadi.
Tháp cao khoảng 45m và được phủ hoàn toàn bằng 8.000 khối đá cẩm thạch trắng, do kiến trúc sư người Iran thiết kế và xây dựng vào năm 1971 để kỷ niệm năm thứ 2.500 của nhà nước Hoàng gia Iran, sau cách mạng 1979 được đổi tên thành Azadi.
Rời quảng trường Azadi chúng tôi đến sân bay nội địa Mehrabat để đi Shiraz, thành phố nằm ở phía Tây Nam của Iran, nơi từ ngàn năm trước đã là một trung tâm thương mại lớn. Shiraz từng được mệnh danh “thủ đô văn hóa Ba Tư”, ngày nay còn lưu lại những địa điểm nổi tiếng như vườn Eram, Shah Cheragh, thánh đường Hồi giáo Nasir-al-molk, Hafezie...
Cách trung tâm thành phố Shiraz khoảng 70km về phía đông bắc là khu di tích khảo cổ học Persepolis - di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1979. Đấy là một thánh địa của đế quốc Ba Tư tồn tại khoảng năm 550 đến năm 330 trước công nguyên. Phế tích còn lại của “kinh đô tôn giáo” Persepolis nằm giữa một thung lũng rộng lớn, được cấu trúc thành nhiều địa hình cao thấp khác nhau. Vật liệu xây dựng chủ yếu bằng đá, nổi bật là những hàng cột cao vút, những trụ cổng điêu khắc sư tử, những hành lang, bậc thang dài chạm khắc hàng dài người hành lễ...
Khu di tích gồm những cụm di tích khác nhau, phần lớn đã được khai quật, bảo tồn và bảo quản để phục vụ khách tham quan. Đây đó vẫn có những chiếc lều vải và máy móc vì các nhà khảo cổ học vẫn đang miệt mài làm việc. Tại đây còn có một bảo tàng trưng bày hàng ngàn hiện vật thu nhặt rải rác khắp nơi... Tôi như lạc vào một thành phố sầm uất khi trước mắt trải ra những con đường lát đá rộng lớn, những cổng đá cao vút, và hàng ngàn chân cột thẳng hàng ngay lối cho biết hàng chục công trình đồ sộ từng sừng sững nơi đây... Có lẽ không chỉ kim tự tháp ở Ai Cập mà thời gian cũng phải ngần ngại trước sự tồn tại đầy kiêu hãnh của phế tích này!
Nhưng mục đích chính của chuyến đi vẫn còn phía trước. Chúng tôi tiếp tục lên đường đến thành phố Isfahan. Hơn 5 giờ xe chạy giữa vùng đất tựa như hoang mạc lọt thỏm giữa những dẫy núi cao, trên đường cao tốc thỉnh thoảng có vài chiếc xe tải, hiếm xe khách, xe hơi nhỏ, hầu như không thấy thị trấn, làng xóm ven đường. Cho đến khi trời sẩm tối nhờ ánh đèn điện có thể nhận biết vài thị trấn, khu dân cư ở phía xa xa...
Isfahan là một thành phố cổ và thủ đô của Ba Tư từ năm 1598 đến năm 1722. Nằm ở miền trung Iran, giữa các tuyến đường giao thông chính Bắc - Nam, Đông - Tây, từ nhiều thế kỷ trước Isfahan được coi là một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới, nổi tiếng bởi nghệ thuật dệt thảm và đồ mỹ nghệ bằng bạc, bằng kim loại tráng men màu... Hiện nay, Isfahan là thành phố có kiến trúc hiện đại bên cạnh nhiều kiến trúc cổ được bảo tồn rất tốt. Trong thành phố, các đại lộ rợp bóng cây xanh, quá trình đô thị hóa và mở rộng thành phố từ nhiều năm nay khiến nó trở thành một trong bốn trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của Iran.
Đúng ngày 5.11.2018 - ngày giỗ lần thứ 358 của Alexandre de Rhodes - chúng tôi đến viếng và khánh thành bia tri ân tại mộ của ngài. Phần mộ nằm ở khu nghĩa địa của người Armenia được xây dựng đã 500 năm nay ở ngoại ô thành phố Isfahan. Giữa nghĩa địa rộng gần 300.000m2 và thoáng đãng như một công viên lớn, ngôi mộ của Cha Đắc Lộ giản dị đánh dấu bằng một phiến đá lớn có khắc tên ngài và được chăm sóc chu đáo như tất cả những ngôi mộ xung quanh. Hơn 350 năm ngài đã nằm lại nơi này giữa cộng đồng người Armenia, những người anh em cùng tôn giáo.
Nhờ công tác chuẩn bị chu đáo của GS. Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Nguyễn Bích Thủy và các thành viên trong đoàn nên buổi lễ đã diễn ra trang nghiêm, xúc động và đầy đủ các thủ tục cần thiết. Tham dự buổi lễ có một số vị khách địa phương: đại diện cộng đồng Hồi giáo tại Isfahan - cộng đồng chủ quản, đại diện cộng đồng cơ đốc giáo Armenian, đại diện nhà thờ quản lý nghĩa trang, đặc biệt có cả gia đình ông Hojat là hướng dẫn viên - người đã giúp GS. Hưng đi tiền trạm trước đó để làm các thủ tục với địa phương về việc đặt bia và tổ chức lễ tưởng niệm tại đây.
Các thành viên nữ trong trang phục áo dài truyền thống cùng các thành viên nam trong trang phục chỉnh tề, đứng quanh ngôi mộ Alexandre de Rhodes. Lời tri ân rất cảm động của GS. Nguyễn Đăng Hưng, những lời phát biểu chân thành của các vị khách địa phương, rồi lời ca đầy cảm xúc “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời...” của anh em trong đoàn vang lên cùng tiếng hàng thông reo vi vu trong nắng thu ấm áp... Hương trầm thơm ngát, những bông hoa hồng ba màu vàng, đỏ và xanh lần lượt được đặt lên mộ Cha Đắc Lộ thể hiện tấm lòng thành của những người Việt, ghi nhớ công lao của một trong những người quan trọng nhất trong hành trình sáng tạo loại chữ viết mà ngày nay chúng ta sử dụng.
Từ nơi đây tôi nhớ về Sài Gòn, nơi từ trước năm 1975 đã có một con đường nhỏ mang tên Alexandre de Rhodes, con đường rợp bóng cây xanh kế bên công viên trung tâm thành phố. Đối diện bên kia là một con đường nhỏ xinh như vậy mang tên Hàn Thuyên, người được cổ sử ghi nhận là giỏi thơ Nôm và có công với chữ Nôm của Việt Nam. Hành trình chữ viết là một trong những hành trình đi vào văn minh của nhân loại. Nhờ công lao của bao vị tiền nhân, bằng chữ Hán, chữ Nôm, đặc biệt là từ thế kỷ XVII với sự ra đời của chữ quốc ngữ, đất nước ta may mắn đã được tham dự vào một đoạn đường quan trọng của hành trình ấy.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Tôi sợ nhất là cái "văn hoá" phi văn hoá, phản văn hoá
29/04/2018Phan Thắng (thực hiện)Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015